- LỜI NÓI ĐẦU
Nước Việt Nam của chúng ta có từ bao giờ? Phải trải qua những thăng trầm để có được một quốc gia thống nhất hình chữ S như ngày nay? Biên giới quốc gia lãnh thổ được hình thành như thế nào? Tại sao Biển Đông lại được gọi là… Biển Đông và Hoàng Sa, Trường Sa là một phần thiêng liêng của tổ quốc mà không ai có thể phủ nhận được ?…Đã bao giờ chúng ta nghĩ đến hoặc tự đặt cho mình những câu hỏi và trả lời cho những câu hỏi như vậy chưa ?
Sẽ có người cho rằng cuộc sống còn thật bề bộn với bao nhiêu lo toan, gánh nặng mà những vấn đề to tát, vĩ mô, xa vời trên đây chưa phải và chưa thể là ưu tiên trước mắt! cũng sẽ có người tự tin mà rằng: có khó gì đâu, tất cả thông tin đều đã sẵn sàng và chỉ cần một cú “nhấp” chuột. Cho dù theo cách nghĩ nào đi chăng nữa thì có một sự thật không thể phủ nhận rằng nếu chúng ta coi tổ quốc như một ngôi nhà, như một môi trường sống của chính mình thì việc tìm hiểu, nghiên cứu, khám phá nó chắc chắn phải là một lẽ đương nhiên! Hay nói cách khác, không thể sống tốt ở một nơi mà chính ta không hiểu gì, biết gì về nơi đó! Hiểu về đất nước, biết về quá khứ cũng là để tránh một thực trạng buồn bã mà không ít bậc thức giả đã chỉ ra: Người mình hiểu về thế giới quá ít ỏi và cũng gần như không hiểu gì về chính mình!
Nước ta có hệ thống biên giới với chiều dài biên giới đất liền là 4. 510 km, chiều dài bờ biển là 3.260 km, vùng biển nước ta rộng trên 1 triệu km2, tiếp giáp với nhiều nước như: Trung Quốc, Cam-pu-chia, Thái Lan, Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a, Bru-nây, In-đô-nê-xi-a. Biên giới nước ta là ranh giới pháp lý quốc tế, là “phên dậu” xác định không gian sinh tồn của đời đời con cháu dân tộc Việt Nam; đồng thời, là không gian hợp tác, mở rộng giao lưu giữa nước ta với các nước trên thế giới, đặc biệt là với các nước láng giềng về tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh…
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách và văn bản quy phạm pháp luật về xây dựng, quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, như Luật Biên giới quốc gia, Luật An ninh quốc gia, Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng, các nghị định, chỉ thị của Chính phủ…. Tất cả đã được cụ thể hóa bằng các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm phát triển kinh tế – xã hội kết hợp với củng cố quốc phòng, an ninh ở khu vực biên giới, biển đảo của Tổ quốc.
Luật biên giới quốc gia năm 2003 đã khẳng định:“Biên giới quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội, tăng cường quốc phòng và an ninh của đất nước”
Do vậy việc giữ vững biên giới, hải đảo là vấn đề cốt tử của Đảng, Nhà nước và mọi người dân Việt Nam. Để giữ vững biên giới quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ cần có nhiều giải pháp cũng như các mô hình, hoạt động để mọi người dân được bày tỏ lòng yêu nước và giữ vững ngọn cờ yêu nước. Đặc biệt trong thanh niên chúng ta cần tiếp tục thực hiện Nghị quyết 04 (về phát huy vai trò xung kích của tuổi trẻ tham gia bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội) Qua đó, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của thanh niên, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của tuổi trẻ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tham gia các chương trình như: “Khi Tổ quốc cần”; “Hành trình tuổi trẻ vì biển, đảo quê hương”; các cuộc vận động: “Đồng hành cùng ngư dân trẻ ra khơi”; “Chung tay thắp sáng nhà giàn DK” và “Góp đá xây Trường Sa” … các chương trình này không chỉ nhận được sự quan tâm, cổ vũ, chia sẻ ủng hộ của xã hội, mà còn có xúc cảm lay động lòng yêu nước của mỗi người dân.
Với mục đích tìm hiểu, siêu tầm, thu thập những thông tin tri thức ở các lĩnh vực xã hội – đời sống làm tư liệu học tập, nghiên cứu nâng cao hiểu biết, rèn luyện khả năng tự học, tự nâng cao trình độ của bản thân trên các lĩnh vực và thực hiện thông báo của Công đoàn cơ quan về cuộc thi “tìm hiểu pháp luật về Biên giới quốc gia” trên địa bàn thành phố Đà Nẵng theo Kê hoạch Liên tịch số 1655/KH-MTTW-CCB-BĐBP-BQĐND, ngày 23/8/2011 của Ban Thường trực Uỷ Ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam; Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng; Báo Quân đội nhân dân, Kế hoạch số 171/KH-MTTQVN-CCB-BĐBP-BQĐND Thành phố Đà Nẵng về cuộc thi “Tìm hiểu pháp luật về Biên giới quốc gia” trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Bài dự thi này ngoài phần tìm hiểu và trả lời các câu hỏi của Ban tổ chức. Tôi mạnh rạn cập nhật, siêu tầm những bài viết của các nhà nghiên cứu, các nhà báo, nhà văn, các tài liệu văn bản pháp luật, các hình ảnh minh họa…. về cương vực, lãnh thổ, biên giới quốc gia.
Đà Nẵng, tháng 12 năm 2011
- NỘI DUNG
- Thế nào là biên giới quốc gia? Biên giới quốc gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam? Khu vực Biên giới đất liền và khu vực biên giới biển được quy định như thế nào?
Biên giới quốc gia là sự liên kết của nhiều mặt để tạo nên một hình khối chứa đựng các thành phần lãnh thổ quốc gia. Các mặt biên giới là những mặt tưởng tượng được xác định từ đường biên giới. Đường biên giới quốc gia quyết định trực tiếp đến việc xác lập biên giới quốc gia, là đường cụ thể để vạch ra rõ ràng trên thực địa bằng hệ thống cột mốc giới và các dấu hiệu khác, được vẽ trên bản đồ, hải đồ và ghi trong các điều ước quốc tế về biên giới.
Theo: www:// hpp wikipedia.org/wiki: Biên giới hay biên giới quốc gia là đường phân định giới hạn lãnh thổ hay lãnh hải của một nước với một nước tiếp giáp khác, hoặc với hải phận quốc tế.
– Các loại biên giới:
- Biên giới đối địch – là biên giới giữa 2 quốc gia đang ở trong tình trạng đối địch, có khả năng xảy ra xung đột vũ trang.
- Biên giới hòa bình hữu nghị – là biên giới chung giữa 2 quốc gia có quanhệ thân thiện, đường biên được hoạch định trên cơ sở thương lượng, bình đẳng.
Biên giới Việt Nam phân định lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam với các nước khu vực chung quanh: Trung Quốc ở phía bắc, Lào và Campuchia phía tây, vịnh Thái Lan ở phía nam, vịnh Bắc Bộ và Biển Đông ở phía đông với tổng chiều dài 4.639 km trên bộ và 3.444 km bờ biển; trên biển là vùng còn tranh cãi với các nước Indonesia, Malaysia, Brunei, Philippines, Đài Loan và Trung Quốc.
Điều 1, Luật biên giới quốc gia số 06/2003/QH11 quy định: “Biên giới quốc gia nước CHXHCN Việt Nam là đường và mặt thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước CHXHCN Việt Nam”.[ 3]
Đỉnh Lũng Cú – Điểm cực Bắc của Tổ quốc -Thuộc tỉnh Hà Giang
-Vĩ độ: 23°22’59″B – Kinh độ: 105°20’20″Đ
Cột mốc biên giới số 102 giữa Việt Nam Cột mốc số 3 A Pa Chải phía Việt Nam
và Trung Quốc tại Cửa khẩu quốc tế Lào Cai
Tượng đài hình con thuyền Hải Đăng Mũi Đại Lãnh (Phú Yên)
đánh dấu vị trí địa lý của Mũi Cà Mau 1 trong 2 điểm cực Đông của Việt Nam
*Nguồn ảnh: Internet
Cột mốc biên giới 605 trên biên giới Việt- Lào (nguồn ảnh theo TTX Việt Nam)
Biên giới quốc gia nước CHXHCN Việt Nam bao gồm: Biên giới quốc gia trên đất liền, biên giới quốc gia trên biển, biên giới quốc gia trong lòng đất và biển giới quốc gia trên không.
Khu vực biên giới trên đất liền và khu vực biên giới biển được quy định như sau:
Khoản 1 điều 6, Luật BGQG Việt Nam quy định:
- Khu vực biên giới trên đất liền gồm xã, phường, thị trấn có một phần địa giới hành chính trùng với Biên giới quốc gia trên đất liền. [ 3]
Đường biên giới trên đất liền của nước CHXHCNVN dài 4.510 Km. Phía Bắc giáp với Trung Quốc có đường biên giới dài 1.306 Km; Phía Tây giáp với Lào có đường biên giới dài 2.067 Km; phía Tây Nam giáp với Campuchia có đường biên giới dài 1.137 Km.
Ngày 18.8.2000 Chính phủ nước CHXHCNVN ban hành Nghị định số 34/2000/NĐ-CP (gồm 5 chương, 27 điều) quy định khu vực biên giới đất liền nước CHXHCNVN bao gồm: “ Các xã, phường, thị trấn có địa giới hành chính tiếp giáp với đường biên giới quốc gia trên đất liền”.[2]
Nghị định này cũng quy định về các hoạt động của người, phương tiện ở khu vực biên giới bao gồm:
“Cư trú, đi lại, sản xuất, kinh doanh, đầu tư, thăm dò, khai thác tài nguyên và các hoạt động khác; quy trách nhiệm; quyền hạn của các cấp chính quyền, các lực lượng, các ngành trong quản lý, bảo vệ biên giới đất liền nước CHXHCN Việt Nam”. [ 2 ]
Theo Khoản 2 điều 6, Luật BGQG Việt Nam quy định:
“Khu vực biên giới trên biển được tính từ Biên giới quốc gia trên biển vào hết địa giới hành chính xã, phường, thị trấn giáp biển đảo, quần đảo”[3]
Bờ biển quốc gia Việt Nam dài 3.260 Km kéo dài tà Móng Cái đến Hà Tiên và được bao bọc bởi biển Đông, tron đó có hai Vịnh quan trọng là Vịnh Bắc Bộ ở phía Đông Bắc và Vịnh Thái Lan ở phía Tây Nam. Biên giới quốc gia trên biển được hoạch định và đánh dấu bằng các tọa độ trên hải đồ là ranh giới phía ngoài lãnh hải của đất liền, lãnh hải của các đảo, lãnh hải của các quần đảo của Việt Nam được xác định theo Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 và các điều ước quốc tế giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các quốc gia hữu quan.
Tọa độ các điểm chuẩn dùng để tính chiều rộng lãnh hải của lục địa Việt Nam như sau:
- Điểm Ao: nằm trên ranh giới phía Tây Nam của Vùng nước lịch sử của Việt Nam và Campuchia.
-
Điểm A1: Tại Hòn Nhạn, quần đảo Thổ Chu, Kiên Giang (09015’0 N – 103027’0 E)
-
Điểm A2: Tại Hòn Đá Lẻ ở Đông Nam Hòn Khoai tỉnh Cà Mau (08022’8 N – 104052’4 E)
-
Điểm A3: Tại Hòn Tài Lớn, Côn Đảo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (08037’8 N – 106037’5 E)
-
Điểm A4: Tại Hòn Bông Lang, Côn Đảo (08038’9 N – 106040’3 E)
-
Điểm A5: Tại Hòn Bảy Cạnh, Côn Đảo (08039’7 N 106042’1 E)
-
Điểm A6: Tại Hòn Hải tỉnh Bình Thuận (09058’0 N – 109005’0 E)
-
Điểm A7: Tại Hòn Đôi tỉnh Khánh Hòa (12039’0 N – 109028’0 E)
-
Điểm A8: Tại Mũi Đại Lãnh tỉnh Phú Yên (12053’8 N – 109027’2 E)
-
Điểm A9: Tại Hòn Ông Căn tỉnh Bình Định (13054’0 N – 109021’0 E)
-
Điểm A10: Tại đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi (15023’1 N – 109009’0 E)
-
Điểm A11: Tại đảo Cồn Cỏ, tỉnh Quảng Trị (17010’0 N – 107020’6 E).
Như vậy, ranh giới phía ngoài lãnh hải của đất liền, lãnh hải của các đảo và các quần đảo là đường biên giới quốc gia trên biển (chiều rộng của lãnh hải là 12 hải lý)
Ngày 18.12.2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 161/2003/NĐ-CP về quy chế khu vực biên giới biển (gồm 5 chương, 37 điều). Quy định khu vực biên giới biển được tính từ Biên giới quốc gia trên biển vào hết địa giới hành chính xã, phường, thị trấn giáp biển và đảo, quần đảo. Nghị định cũng quy định:
“ Hoạt động của người, tàu thuyền của Việt Nam, nước ngoài trong khu vực biên giới biển nhằm quản lý, bảo vệ biên giới trên biển, duy trì an ninh, trật tự an toàn xã hội trong khu vực biên giới biển”.[1]
Quy định về đầu tư xây dựng khu vực biên giới bền vững về mọi mặt, xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng công trình quản lý, bảo vệ biển… quy định tàu thuyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ và tàu thuyền quân sự nước ngoài vào thăm nước CHXHCNVN thực hiện theo pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia; quy định người, tàu thuyền, hàng hóa nhập cảnh, quá cảnh, nhập khẩu, xuất khẩu bằng đường hàng hải; quy định chế độ pháp lý, quy chế quản lý và bảo vệ vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của nước CHXHCNVN.
Theo phụ lục của Nghị định 161/2003/NĐ-CP. Năm 2003 toàn tuyền khu vực biên giới biển của nước CHXHCN Việt Nam trải dài từ Bắc vào Nam có 28 tỉnh, thành phố với 124 huyện, quận, thị trấn. Riêng thành phố Đà Nẵng tính đến thời điểm hiện nay theo Nghị định 161/2003NĐ – CP đã lên tới 17 phường (thuộc 5 quận) là khu vực biên giới biển của thành phố như sau:
- Phường Hòa Hiệp Bắc
- Phường Hòa Hiệp Nam
- Phường Hòa Khánh Bắc
- Phường Hòa Minh
- Phường Thanh Khê Đông
- Phường Thanh Khê Tây
- Phường Xuân Hà
- Phường Tam Thuận
- Phường Thanh Bình
- Phường Thuận Phước
- Phường Thọ Quang
- Phường Mân Thái
- Phường Phước Mỹ
- Phường Nại Hiện Đông
- Phường Mỹ An
- Phường Khuê Mỹ
- Phường Hòa Hải.
- Chế độ pháp lý các vùng biển và thềm lục địa của nước CHXHCN Việt Nam? Quy định đối với người, tàu, thuyền hoạt động trong khu vực biên giới biển CHXHCN Việt Nam?
Chế độ Pháp lý các vùng biển và thềm lục địa của nước CHXHCN Việt Nam
- Dựa trên các Căn cứ pháp lý sau:
Tuyên bố ngày 12/7/1977 của Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về; lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Tuyên bố ngày 12/11/1982 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam.
Công ước luật biển 1982, công ước có hiệu lực từ ngày 16/11/1994 Việt Nam phên công ước ngày 23/6/1994.
Luật biên giới quốc gia đã được Quốc hội nước cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua ngày 17/6/2003 và có hiệu lực ngày 1/1/2004
Viện dẫn từ các văn bản này, quy định khái niệm và chế độ pháp lý các vùng biển Việt Nam.
Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có 05 vùng biển: Vùng nước nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Tại Khoản 1, Điều 4, Chương I, Luật Biên giới quốc gia quy định: “Đường cơ sở là đường gãy khúc nối liền các điểm được lựa chọn tại ngấn nước thủy triều thấp nhất dọc theo bờ biển và các đảo gần bờ do Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định và công bố”.[3]
Đường cơ sở gồm 10 đoạn nối 11 điểm theo tọa độ các điểm chuẩn đường cơ sở dùng để tính trên diện rộng lãnh hải của lục địa Việt Nam như sau:
Điểm |
Vị trí địa lý |
Vĩ độ N |
Kinh độ E |
0 |
Nằm trên ranh giới phía tây nam của vùng nước lịch sử của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Campuchia |
|
|
A1 |
Tại Hòn Nhạn, quần đảo Thổ Chu, tỉnh Kiên Giang |
9015’0 |
103027’0 |
A2 |
Tại hòn Đá lẻ ở đông nam Hòn Khoai, tỉnh Minh Hải |
8022’8 |
104052’4 |
A3 |
Tại Hòn Tài Lớn, Côn Đảo, Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo |
8037’8 |
106037’5 |
A4 |
Tại Hòn Bông Lang – Côn Đảo |
8038’9 |
106040’3 |
A5 |
Tại Hòn Bảy cạnh – Côn Đảo |
8039’7 |
106042’1 |
A6 |
Tại Hòn Hải (nhóm đảo Phú Quý), tỉnh Thuận Hải |
9058’0 |
109005’0 |
A7 |
Tại Hòn Đôi, tỉnh Thuận Hải |
12039’0 |
109028’0 |
A8 |
Tại Mũi Đại Lãnh, tỉnh Phú Khánh |
12053’8 |
109027’2 |
A9 |
Tại Hòn Ông Căn, tỉnh Phú Khánh |
13054’0 |
109021’0 |
A10 |
Tại đảo Lý Sơn, tỉnh Nghĩa Bình |
15023’1 |
109009’0 |
A11 |
Tại đảo Cồn Cỏ, tỉnh Bình Trị Thiên |
17010’0 |
107020’6 |
(Đính theo Tuyên bố ngày 12 tháng 11 năm 1982 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).[5]
“Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam từ điểm tiếp giáp 0 của hai đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia nằm giữa biển, trên đường thẳng nối liền quần đảo Thổ Chu và PouLo Wai, đến đảo Cồn Cỏ theo các tọa độ ghi trong phụ lục nói trên được vạch trên các bản đồ tỷ lệ 1/100.000 của Hải quân nhân dân Việt Nam xuất bản đến 1979” [5]
Tuyên bố cũng quy định các nội dung sau:
“Vịnh Bắc Bộ là vịnh nằm giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc do Pháp và nhà Thanh ký ngày 26 tháng 6 năm 1887.Phần vịnh thuộc phía Việt Nam là vùng nước lịch sử theo chế độ nội thủy của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Đường cơ sở từ đảo Cồn Cỏ đến cửa vịnh sẽ được công bố sau khi vấn đề đường cửa vịnh được giải quyết. Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ được quy định cụ thể trong một văn kiện tiếp theo phù hợp với điểm 5 của bản Tuyên bố ngày 12 tháng 5 năm 1977 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Vùng nước phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển, hải đảo của Việt Nam là nội thủy của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ cùng các nước liên quan, thông qua thương lượng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, giải quyết các vấn đề bất đồng về các vùng biển và thềm lục địa của mỗi bên”. [5]
- Vùng nước nội thủy (Internal waters):
Là vùng nước nằm phía bên trong của đường cơ sở dùng đẻ tính chiều rộng lãnh hải, tại đó quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ như trên lãnh thổ đất liền.
Chủ quyền ở đây được hiểu quyền đặc thù của một quốc gia độc lập, quyền tối cao của quốc gia thực hiện trong phạm vi vùng biển thuộc quốc gia đó.
Vùng nước nội thủy bao gồm: các vùng nước cảng biển, các vũng tàu, cửa sông, các vịnh, các vùng nước nằm giữa lãnh thổ đất liền và đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
- Lãnh hải (Territorial sea):
Lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam rộng 12 hải lý, ở phía ngoài đường cơ sở nối liền các điểm nhổ ra nhất của bờ biển và các điểm ngoài cùng của các đảo ven bờ của Việt Nam tính từ ngấn nước thủy triều thấp nhất trở ra.
Việt Nam thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải.
Tuy nhiên, chủ quyền dành cho chúng ta không phải là tuyệt đối như đối với các vùng nước nội thủy, bởi vì tàu thuyền các nước khác được đi qua không gây hại trong lãnh hải. Chúng ta có quyền ấn định các tuyến đường, quy định việc phân chia các luồng giao thông dành cho tàu nước ngoài đi qua lãnh hải nhằm đảm bảo chủ quyền an ninh quốc gia và lợi ích của mình.
- Vùng tiếp giáp lãnh hải (Contiguous zone):
Vùng tiếp giáp lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vùng biển tiếp liền phía ngoài lãnh hải Việt Nam có chiều rộng 12 hải lý, hợp với lãnh hải Việt Nam thành một vùng biển rộng 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện sự kiểm soát cần thiết trong vùng tiếp giáp lãnh hải của mình, nhằm bảo vệ an ninh, bảo vệ các quyền lợi về hải quan, thuế khóa, đảm bảo sự tôn trọng các quy định về y tế, về di cư, nhập cư trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam.
- Vùng đặc quyền kinh tế (Exclusive economic zone):
Vùng đặc quyền kinh tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp liền lãnh hãi Việt Nam và hợp với lãnh hải Việt Nam thành một vùng biển rộng 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật ở vùng nước, ở đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển của vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam; có quyền và thẩm quyền riêng biệt về các hoạt động khác phục vụ cho việc thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế nhằm mục đích kinh tế; có thẩm quyền riêng biệt về nghiên cứu khoa học trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thẩm quyền bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
- Thềm lục địa (Continental shelf):
Thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa Việt Nam mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bò ngoài của rìa lục địa; nơi nào bờ ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam không đến 200 hải lý thì thềm lục địa nowqi ấy mở rộng ra 200 hải lý kể từ đường cơ sở đó.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về mặt thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa Việt Nam bao gồm tài nguyên khoáng sản, tài nguyên không sinh vật và tài nguyên sinh vật thuộc loại định cư ở thềm lục địa Việt Nam.
Cách tính toán
Vùng nội thủy được tính toán và đo đạc dựa trên đường cơ sở. Các lưu ý khi tính toán nội thủy liên quan tới cửa sông hay các vũng, vịnh nhỏ chỉ thuộc về một quốc gia ven biển.
Nếu một con sông chảy trực tiếp ra biển thì đường cơ sở sẽ là đường thẳng đi ngang qua cửa sông, nối các điểm ở mực nước thấp nhất (trung bình nhiều năm) trên hai bờ của nó.
Nếu một vũng hay vịnh nhỏ có các bờ chỉ thuộc về một quốc gia thì người ta cần xác định xem nó là một vũng, vịnh “thật sự” hay chỉ là đoạn uốn cong lõm vào tự nhiên của bờ biển (theo khoản 2 điều 10 phần II của Công ước). Một vũng hay vịnh được coi là “thật sự” nếu diện tích của phần lõm vào, bị cắt bởi đường cơ sở, là bằng hoặc lớn hơn diện tích của hình bán nguyệt được tạo ra với đường kính bằng chính độ dài của phân đoạn đường cơ sở tại phần lõm vào đó. Nếu trong đoạn lõm vào này có một số đảo thì hình bán nguyệt tưởng tượng sẽ có đường kính bằng tổng độ dài các phân đoạn của các đường cơ sở. Ngoài ra, chiều dài của đường kính này phải không vượt quá 24 hải lý. Vùng nước bên trong của đường cơ sở tưởng tượng đó cũng được coi là nội thủy. Quy tắc này không áp dụng cho các vũng, vịnh đã thuộc chủ quyền của một quốc gia nào đó mang tính chất “lịch sử” hoặc trong bất kỳ trường hợp nào mà việc áp dụng đường cơ sở thẳng là hợp lý.
Bản đồ: các vùng biển theo luật biển quốc tế
Đường màu đỏ nối 11 điểm từ hòn Nhạn đến Cồn Cỏ gọi là đường cơ sở,
đường gạch đứt quãng màu xanh gọi là biên giới quốc gia trên biển.
* Quy định đối với người, tàu, thuyền hoạt động trong khu vực biên giới biển nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tại Khoản 1, Điều 2, Chương I, Nghị định số 161/2003/NĐ-Cp ngày 18/12/2003 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Khu vực biên giới biển tính từ biên giới quốc gia trên biển vào hết địa giới hành chính các xã, phường, thị trấn giáp biển và đảo, quần đảo”. [1]
Biên giới quốc gia trên biển được hoạch định và đánh dấu bằng tọa độ trên hải đồ, là ranh giới phía ngoài của lãnh hải Việt Nam.
Tại Điều 5, Chương I, Nghị định số 161/2003/NĐ-CP ngày 18/12/2003 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “ Người, tàu, thuyền của Việt Nam và nước ngoài hoạt động trong khu vực biên giới biển phải có đầy đủ giấy tờ, trang bị đảm bảo an toàn theo quy định của pháp luật; hoạt động đúng mục đích, phạm vi thời gian cho phép, đi đúng luồng tuyến và phải chịu sự giám sát, kiểm tra, kiểm soát, xử lý của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam”. [1]
Quy định đối với người, tàu thuyền của Việt Nam hoạt động trong khu vực biên giới biển (Chương II, Nghị định 161/2003/NĐ-CP):
“Đối với người: Phải có giấy tờ tùy thân do cơ quan có thẩm quyền cấp (chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ do công an xã, phường, thị trấn nơi cư trú cấp); chứng chỉ chuyên môn của thuyền viên, sổ thuyền viên theo quy định của pháp luật; giấy phép sử dụng vũ khí (nếu có).
Đối với tàu, thuyền: Phải có giấy chứng nhận đăng ký tàu, thuyền, giấy chứng nhận về an toàn kỹ thuật, biển số đăng ký, sổ danh bạ thuyền viên, giấy phép sử dụng tần số và thiết bị liên quan đến hàng hóa trên tàu, thuyền.
Ngoài các giấy tờ như trên, người,tàu, thuyền hoạt động trong khu vực biên giới biển phải có các giấy tờ khác liên quan đến lĩnh vực hoạt động theo quy định của pháp luật”.[1]
- Việc diễn tập quân sự, diễn tập tìm kiến cứu nạn, tổ chức bắn đạn thật hoặc sử dụng vật liệu nổ trong khu vực biên giới biển phải thông báo cho ủy ban nhân dân và Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh sở tại, Cục Hàng hải Việt Nam biết ít nhất 05 ngày trước khi tiến hành.
Người, tàu, thuyền của Việt Nam làm nhiệm vụ thăm dò, nghiên cứu khoa học, khảo sát về địa chất, khoáng sản trong khu vực biên giới biển, ngoài các loại giấy tờ như đã nêu, phải có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền, phải thông báo cho ủy ban nhân dân và Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh nơi có biên giới biển biết ít nhất 02 ngày trước khi thực hiện nhiệm vụ.
- Quy định đối với người, tàu, thuyền của nước ngoài hoạt động trong khu vực biên giới biển (Chương III, Nghị định 161/20003/NĐ/Cp):
- Đối với người: Phải có hộ chiếu hợp lệ hoặc giấy tờ có giá trị tương đương thay hộ chiếu; các giấy tờ khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.
– Đối với tàu, thuyền: Phải có giấy chứng nhận đăng ký tàu, thuyền; giấy chứng nhận về an toàn kỹ thuật; danh sách thuyền viên, nhân viên phục vụ và hành khách trên tàu; giấy phép sử dụng tần số và thiết bị phát sóng vô tuyến điện; giấy tờ liên quan đến hàng hóa vận chuyển trên tàu, thuyền và các giấy tờ khác có liên quan do pháp luật Việt Nam quy định cho từng loại tàu thuyền và lĩnh vực hoạt động.
– Người nước ngoài thướng trú, tạm trú ở Việt Nam khi đến xã, phường, thị trấn giáp biển hoặc ra, vào các đảo, quần đảo (trừ khu du lịch, dịch vụ, khu kinh tế cửa khẩu, có quy chế riêng) phải có giấy phép của Công an từ cấp tỉnh trở lên và chịu sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền Việt Nam.
– Tàu, thuyền nước ngoài hoạt động trong khu vực biên giới biển Việt Nam phải treo cờ quốc tịch và treo quốc kỳ của Việt Nam ở đỉnh cột tàu cao nhất; khi neo đậu tại cảng, bến đậu của Việt Nam phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam, chịu sự giám sát, kiểm tra,kiểm soát, xử lý vi phạm của các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam, nếu thuyền viên, nhân viên nước ngoài đi bờ phải có giấy phép của Đồn biên phòng cảng Việt Nam nơi tàu, thuyền neo đậu cấp.
– Khi thực hiện quyền qua lại không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, tàu, thuyền nước ngoài phải tuân thủ các quy định về các vấn đề: Không làm phương hại đến hòa bình, an ninh, trật tự môi trường sinh thái của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; an toàn hàng hải và điều phối giao thông đường biển; bảo vệ các thiết bị và hệ thống bảo đảm hàng hải và các thiết bị hay công trình khác; bảo vệ các đường dây cáp và ống dẫn; bảo tồn tài nguyên sinh vật biển; ngăn ngừa nhưng bi phạm pháp luật liên quan đến việc đáng bắt hải sản giữ gìn môi trường, ngăn ngừa, hạn chế, chế ngự ô nhiễm môi trường; nghiên cứu khoa học biển và đo đạc thủy văn; ngăn ngừa những vi phạm pháp luật về hải quan, thuế, y tế hay nhập cư của Việt Nam; đối với tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác phải trong tư thế đi nổi và treo cờ quốc tịch.
– Tàu, thuyền nước ngoài có động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân, tàu, thuyên chuyên chở chất phóng xạ, chất nguy hiểm độc hại khác khi thực hiện thuyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam phải được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam cho phép, phải mang đầy đủ các tài liệu và áp dụng các biện pháp phòng ngừa đặc biệt theo quy định của pháp luật Việt Nam và các quy định của Điều ước quốc tế đối với loại tàu, thuyền đó mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập.
– Người, tàu, thuyền nước ngoài khi tiến hành hoạt động điều tra thăm dò, khảo sát, nghiên cứu, đánh bắt, khai thác tài nguyên, hải sản phải được phép của cơ quan có thẩm quyền Việt Nam, phải thông báo cho ủy ban nhân dân và bộ đội Biên phòng cấp tỉnh nơi có biên giới ít nhất 02 ngày trước khi thực hiện nhiệm vụ.[1]
Bản đồ quy định về hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ theo Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa
- 3. Những hoạt động nào ở khu vực biên giới đất liền, khu vực biên giới biển bị nghiêm cấm? Công dân Việt Nam, người nước ngoài khi ra, vào hoạt động tại khu vực biên giới đất liền phải chấp hành quy định pháp luật như thế nào?
Những hoạt động bị cấm ở khu vực biên giới đất liền; khu vực biên giới biển:
* Phạm vi khu vực biên giới:
- Khu vực biên giới trên đất liền gồm xã, phường thị trấn có một phần địa giới hành chính trùng hợp với biên giới quốc gia trên đất liền (Điều 6 – Luật BGQG; khoăn 1,2,3):
Khu vực biên giới bao gồm:
- Khu vực biên giới trên đất liền gồm xã, phường, thị trấn có một phần địa giới hành chính trùng hợp với biên giới quốc gia trên đất liền;
- Khu vực biên giới trên biển tính từ biên giới quốc gia trên biển vào hết địa giới hành chính xã, phường, thị trấn giáp biển và đảo, quần đảo;
- Khu vực biên giới trên không gồm phần không gian dọc theo biên giới quốc gia có chiều rộng mười kilômét tính từ biên giới quốc gia trở vào.[7]
Điều 2 – NĐ 34 khoản 1,2,3 quy định:
- Khu vực biên giới đất liền nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sau đây gọi tắt là khu vực biên giới) bao gồm các xã, phường, thị trấn có địa giới hành chính tiếp giáp với đường biên giới quốc gia trên đất liền.
Mọi hoạt động trong khu vực biên giới phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết.
Trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết có quy định khác với Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật về biên giới quốc gia thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.
- Trong khu vực biên giới có vành đai biên giới, ở những nơi có yêu cầu cần thiết bảo đảm cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và kinh tế thì xác lập vùng cấm.
- a) Vành đai biên giới là phần lãnh thổ nằm tiếp giáp với đường biên giới quốc gia có chiều sâu tính từ đường biên giới trở vào nơi hẹp nhất là 100 m, nơi rộng nhất không quá 1.000 m, trừ trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quy định.
- b) Vùng cấm là phần lãnh thổ nằm trong khu vực biên giới được áp dụng một số biện pháp hành chính để hạn chế việc cư trú, đi lại, hoạt động của công dân.
- c) Khu vực biên giới, vành đai biên giới, vùng cấm phải có biển báo; biển báo theo mẫu thống nhất và cắm ở nơi cần thiết, dễ nhận biết.
- Phạm vi cụ thể của vành đai biên giới, vùng cấm do ủy ban nhân dân tỉnh biên giới xác định sau khi đã thống nhất với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, các ngành hữu quan và báo cáo Chính phủ.[2]
- Khu vực biên giới biển tính từ biên giới quốc gia trên biển vào hết địa giới hành chính xã, phường, thị trấn giáp biển và đảo, quần đảo (Điều 6 – Luật BGQG; điều 2 – NĐ 161)
* Những hoạt động bị cấm ở KVBG đất liền: Điều 21-NĐ 34:
- Làm dư hỏng, xê dịch, cột mốc biên giới, dấu hiệu đường biên giới, biển báo khu vực biên giới, vùng cấm.
Làm thay đổi dòng chảy sông suối, biên giới
Xâm canh, xâm cư qua biên giới
Bắn súng qua biên giới, gây nổ, đốt nương, rẫy trong vành đai biên giới.
Vượt biên giới quốc gia trái phép, chứa chấp chỉ đường, chỉ chỗ, che giấu bọn buôn lậu vượt biên giới trái phép.
Khai thác trái phép lâm, thủy sản và các tài nguyên khác.
Buôn lậu vận chuyển trái phép vũ khí chất cháy, chất nổ, chất độc hại, ma túy, văn hóa phẩm độc hại và hàng hóa chống nhập khẩu qua biên giới.
Săn bắn thú rừng nguy hiểm, đánh bắt cá bằng vật liệu nổ, kích điện, chất độc và các hoạt động gây hại khác trên sông suối biên giới.
Thải bỏ các chất độc hại gây ô nhiễm môi trường hệ sinh thái.
Có hành vi khác làm mất trật tự, trị an ở khu vực trị an ở khu vực biên giới.
* Những hoạt động bị cấm ở KVBG: Điều 134-NĐ 161
- Quay phim chụp ảnh, vẽ cảnh vật, ghi băng hình hoặc địa hình, thu phát vô tuyến điện ở khu vực cơ sở biển cấm.
Neo đậu tàu thuyền không đúng nơi quy định hoặc làm cản trở giao thông đường thủy.
Khai thác hải sản, săn bắn trái với quy định của pháp luật.
Tổ chức, chứa chấp, dẫn đường, chuyên chở người xuất nhập cảnh trái phép.
Đưa người hàng hóa lên tàu thuyền hoặc từ tàu thuyền xuống trái phép.
Phóng lên các phương tiện bay hạ xuống các tàu thuyền, vật thể khác trái phép với quy định của pháp luật Việt Nam.
Mua bán, trao đổi, vận chuyển, sử dụng trái phép vũ khí, chất cháy, chất nổ, chất hại, ma túy, hàng hóa vật phẩm ngoại hối.
Khai thác trục vớt tài sản, đồ vật khi chưa được phép của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
Bám buộc thuyền vào các phao tiêu hoặc có hành vi gây tổn hại đến sự an toàn của các công trình, thiết bị trong biên giới biển;
Thải bỏ các chất độc hại gây ô nhiễm môi trường.
Các hoạt động khác vi phạm pháp luật Việt Nam.
Công dân Việt Nam, người nước ngoài khi ra vào, hoạt động tại khu vực Biên giới đất liền phải chấp hành nhưng quy định sau:
* Công dân Việt Nam: Điều 6 – NĐ 34
- Công dân Việt Nam khi vào khu biên giới phải có giấy chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ do công an xã, phường, thị trấn nơi cư trú cấp;
Cán bộ chiến sỹ lực lượng vũ trang, cán bộ công chức của cơ quan, tổ chức khi vào khu vực biên giới về việc riêng phải có giấy chứng minh nhân dân hoặc chứng minh của quân đội, Công an;
Trường hợp vào khu vực biên giới công tác phải có giấy giới thiệu của cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý;
* Người nước ngoài: Điều – NĐ 34:
-Người nước ngoài đang công tác tại các cơ quan trung ương vào khu vực biên giới phải có phép do Bộ Công an; nếu người nước ngoài đang tạm trú tại địa phương vào khu vực biên giới phải có giấy phép do Công an cấp tỉnh nơi tạm trú cấp;
Các cơ quan tổ chức của Việt Nam khi đưa người nước ngoài vao khu vực biên giới phải có đủ giấy tờ theo quy định của Nghị định này và cử cán bộ đi cùng để hướng dẫn và thông báo cho Công an, BĐBP tỉnh nơi đến.
Người nước ngoài khi vào vành đai biên giới phải có giấy phép theo quy định tại khoản 1 điều này và phải trực tieeos trình báo cho Đồn Biên phòng hoặc chính quyền sở tại để thông báo cho Đồn biên phòng.
- Trường hợp người nước ngoài đi trong tổ chức của đoàn cấp cao cào khu vực biên giới thì cơ quan, tổ chức của Việt Nam (cơ quan mời và làm việc với quan Công an và BĐBP cấp tỉnh nơi đến biết.
Việc đi lại, hoạt động, tạm trú trong khu vực beien giới Việt Nam của những người trong khu vực biên giới nước tiếp giáp thực hiện theo hiệp định về quy chế biên giới giữa 2 nước.
- Ngày tháng năm nào trong năm được xác định là “Ngày biên phòng toàn dân”. Nội dung của ngày biên phòng toàn dân.?
Bộ đội Biên phòng Việt Nam là lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, là một thành phần của Quân đội Nhân dân Việt Nam, làm nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, trật tự biên giới quốc gia trên đất liền, các hải đảo, vùng biển và tại các cửa khẩu theo phạm vi nhiệm vụ do pháp luật quy định và là một lực lượng thành viên trong khu vực phòng thủ tỉnh, huyện biên giới của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Ngày 3 tháng 3 năm 1959, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 100-TTg về việc thành lập một lực lượng vũ trang chuyên trách công tác biên phòng và bảo vệ nội địa, lấy tên là Công an Nhân dân Vũ trang, đặt dưới sự lãnh đạo của Bộ Công an. Ngày này được lấy làm ngày truyền thống của Lực lượng Bộ đội Biên phòng và còn được gọi là Ngày Biên phòng toàn dân và được quy định tại Điều 28 Luật Biên giới quốc gia 2003 ngày 03 tháng 3 hàng năm là “Ngày biên phòng toàn dân”.
Buổi tuần tra của Bộ đội biên phòng Việt Nam
Điều 14 Nghị định số 140/2004/ NĐ-CP ngày 25/6/2004 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Biên giới quốc gia 2003 quy định cụ thể là Ngày biên phòng toàn dân được tổ chức thực hiện hàng năm trong phạm vi cả nước với những hoạt động để giáo dục ý thức pháp luật về biên giới quốc gia, tôn trọng biên giới, chủ quyền lãnh thổ, tinh thần trách nhiệm của các cấp, các ngành, chính quyền và nhân dân khu vực biên giới trong xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới. Người đứng đầu các cấp, các ngành, các địa phương có trách nhiệm tổ chức thực hiện Ngày biên phòng toàn dân theo sự chỉ đạo của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Quốc phòng. Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng có trách nhiệm tham mưu cho Bộ Quốc phòng chỉ đạo, hướng dẫn các cấp, các ngành, các địa phương tổ chức thực hiện Ngày biên phòng toàn dân.
Điều 14. Nghị định của chính phủ Quy định chi tiết một số điều của Luật Biên giới quốc gia về Ngày Biên phòng toàn dân:
- Ngày 03 tháng 3 là Ngày Biên phòng toàn dân được tổ chức thực hiện hàng năm trong phạm vi cả nước. Nội dung hoạt động gồm:
- a) Giáo dục ý thức pháp luật về biên giới quốc gia, tôn trọng biên giới, chủ quyền lãnh thổ, tinh thần trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cán bộ, nhân viên cơ quan, tổ chức, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và của toàn dân; đặc biệt là cán bộ, nhân viên cơ quan, tổ chức, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, chính quyền và nhân dân khu vực biên giới trong xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới.
- b) Huy động các ngành, các địa phương hướng về biên giới, tích cực tham gia xây dựng tiềm lực về mọi mặt ở khu vực biên giới, tạo ra sức mạnh của toàn dân, giúp đỡ Bộ đội biên phòng và các đơn vị khác thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, các cơ quan chức năng ở khu vực biên giới trong xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới.
- c) Xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài với các nước láng giềng, phối hợp hai bên biên giới trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia và phòng, chống tội phạm.
- Người đứng đầu các cấp, các ngành, các địa phương có trách nhiệm tổ chức thực hiện Ngày Biên phòng toàn dân theo chỉ đạo của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Quốc phòng.
- Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng có trách nhiệm tham mưu cho Bộ Quốc phòng chỉ đạo, hướng dẫn các cấp, các ngành, các địa phương tổ chức thực hiện Ngày Biên phòng toàn dân.[11]
Một số hình ảnh hoạt động của Bồ đội biên phòng với cán bộ và nhân dân địa phương nơi biên giới- hải đảo (phường Phước Mỹ, Sơn Trà , Đà Nẵng)
Hình ảnh hoạt động giao lưu bóng chuyền giữa bồ đội biên phòng (đồn 252 – Đà Nẵng) với cán bộ và nhân dân phường Phước Mỹ, Quận Sơn Trà, Đà Nẵng nhân ngày “ biên phòng toàn dân” ngày 3 tháng 3năm 2011
Lễ bàn giao nhà Đại đoàn kết cho các gia đình thuộc diện hộ nghèo của bồ đội biên phòng thành phố – UB Mặt trận TQ các cấp theo chương trình mái ấm nơi biên giới hải đảo (phường Phước Mỹ, Quận Sơn Trà năm 2010 và 2011)
Các hoạt động thăm tặng quà, tri ân các gia đình thương binh liệt sĩ – làm vệ sinh môi trường của đoàn viên Liên chi đoàn 883 (Hải quân) và đoàn viên đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh phường Phước Mỹ.
Lãnh đạo địa phương thăm, động viên Hội thi tìm hiểu về biên giới hải đảo
chiến sĩ mới lên đường bảo vệ biên cương của tổ quốc
Ảnh: Văn Chung
Như vậy nội dung chủ yếu của Ngày biên phòng toàn dân là: Giáo dục ý thức pháp luật về biên giới quốc gia, tôn trọng biên giới, chủ quyền lãnh thổ, tinh thần trách nhiệm của các cấp, các ngành của chi bộ, nhân viên cơ quan, tổ chức cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang, chính quyền và nhân dân khu vực biên giới trong xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới.
- Huy động các ngành, các địa phương hướng về biên giới, tích cực tham gia xây dựng tìm lực về mọi mặt ở khu vực biên giới, tạo ra sức mạnh của toàn dân. Giúp đỡ bộ đội biên phòng và các đơn vị khác thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, các cơ quan chức năng ở khu vực biên giới trong xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới.
Xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị ổn định lâu dài với các nước láng giềng. Phối hợp hai biên giới trong quản lý bảo vệ biên giới quốc gia và phòng chống tội phạm.
* Chế độ chính sách của nhà nước trong hoạt động Biên phòng toàn dân:
Nhà nước xây dựng Bộ đội biên phòng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, vững mạnh về chính trị, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ.
Các lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia được sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ, phương tiện kỹ thuật, phương tiện chuyên dùng theo quy định của pháp luật.
Nhà nước có chính sách, chế độ ưu đãi đối với người trực tiếp và người được huy động làm nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia.
-Người được cơ quan có thẩm quyền huy động tham gia bảo vệ biên giới quốc gia mà hy sinh, bị thương, bị tổn hại về sức khoẻ thì được hưởng chính sách, chế độ như đối với dân quân, tự vệ tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Tổ chức, cá nhân có phương tiện, tài sản được cơ quan có thẩm quyền huy động trong trường hợp cấp thiết để tham gia bảo vệ biên giới quốc gia bị thiệt hại thì được bồi thường theo quy định của pháp luật.
Tổ chức, cá nhân có thành tích trong hoạt động xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
Câu 5: Nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân trong bảo vệ biên giới quốc gia và chế độ, chính sách của Nhà nước đối với người, phương tiện tài sản của tổ chức, cá nhân được huy động làm nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia?
Xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới là nhiệm vụ của Nhà nước và của toàn dân, trước hết là của chính quyền, nhân dân khu vực biên giới và các lực lượng vũ trang nhân dân. Bộ đội Biên phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách, phối hợp với lực lượng Công an nhân dân, các ngành hữu quan và chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới theo quy định của pháp luật.
Mọi công dân Việt Nam có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ biên giới quốc gia của nước CHXHCN Việt Nam, xây dựng khu vực biên giới giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới. Nếu phát hiện mốc quốc giới bị hư hại, bị mất, bị sai lệch vị trí làm lệch hướng đi của đường biên giới quốc gia hoặc công trình biên giới bị hư hại, các hành vi xâm phạm biên giới, phá hoại an ninh trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới phải báo ngay cho bộ đội biên phòng hoặc chính quyền địa phương, cơ quan nơi gần nhất để thông báo kịp thời cho bộ đội biên phòng xử lý theo quy định của pháp luật.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ, trách nhiệm tôn trọng đường biên giới quốc gia, nghiêm chỉnh chấp hành và thực hiện pháp luật về biên giới quốc gia, tích cực tham gia bảo vệ biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới; phối hợp, giúp đỡ Bộ đội biên phòng đấu tranh phòng ngừa và phòng chống các hành vi xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ, biên giới quốc gia, an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới.
- Chế độ chính sách của Nhà nước đối với người, phương tiện, tài sản của tổ chức, cá nhân được huy động làm nhiệm vụ quản lý bảo vệ biên giới quốc gia:
Nhà nước có chính sách, chế độ ưu đãi đối với người trực tiếp và người được huy động làm nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia.
Người được cơ quan có thẩm quyền huy động tham gia bảo vệ biên giới quốc gia mà hy sinh, bị thương, bị tổn hại về sức khỏe, thì được hưởng chính sách, chế độ như dân quân, tự vệ tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Tổ chức, cá nhân có phương tiện, tài sản được cơ quan có thẩm quyền huy động trong trường hợp cần thiết để tham gia bảo vệ biên giới quốc gia bị thiệt hại thì được bồi thường theo quy định của pháp luật./.
Những con tàu cá của ngư dân Đà Nẵng vẫn hàng ngày ra khơi, bám biển, giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia trên biển.
Ngư dân Việt Nam đánh bắt thủy sản trên vùng lãnh hải của Việt Nam rất cần được trang bị phương tiện, tàu thuyền cở lớn để không bị tàu thuyền nước ngoài đe dọa, xua đuổi.
Để đổi mới, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng, quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, chính sách của Nhà nước đối với người, phương tiện tài sản của tổ chức, cá nhân được huy động làm nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trong thời kỳ hội nhập quốc tế, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân, các cấp, các ngành, các lực lượng vũ trang đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh ở miền núi, biên giới, biển đảo; đề cao cảnh giác trước các âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, an ninh biên giới, biển đảo.
Hai là, đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, kết hợp với củng cố quốc phòng – an ninh trên tuyến biên giới, biển đảo với phương châm: Nhà nước cần có chính sách đặc biệt, có cơ chế chính sách “ưu tiên, bổ sung kế hoạch về xây dựng kinh tế – xã hội khu vực biên giới, biển đảo; phấn đấu tăng trưởng kinh tế ở khu vực biên giới, xóa đói, giảm nghèo, giảm dần khoảng cách chênh lệch giữa khu vực biên giới với các khu vực khác về phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Coi trọng sự chỉ đạo xây dựng cơ sở, địa bàn dân cư ở khu vực biên giới vững mạnh toàn diện, tạo nền tảng vững chắc để quản lý, bảo vệ biên giới. Triển khai có hiệu quả chương trình xây dựng các trung tâm cụm xã, miền núi, vùng cao và các chương trình mục tiêu quốc gia đã đề ra. Hình thành các cụm làng, xã biên giới trên cơ sở kế hoạch kinh tế và mục tiêu lâu dài về quốc phòng, an ninh, tạo vành đai biên giới trong thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ biên cương Tổ quốc. Có kế hoạch và chính sách khuyến khích đưa dân ra làm ăn sinh sống ở sát biên giới, đồng thời tập trung xây dựng các trung tâm kinh tế, thị trấn, thị xã, khu kinh tế mở, các dự án phát triển kinh tế quốc phòng, tạo thế đứng chân vững chắc ở biên giới.
Nghiên cứu, nâng cấp và mở thêm một số tuyến đường giao thông tạo thế liên hoàn phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội ở khu vực biên giới. Cần có khoản ngân sách riêng đầu tư xây dựng, khai thác thế mạnh của rừng, biển đảo. Tiếp tục đầu tư xây dựng các tuyến phòng thủ biển đảo. Bố trí dân sinh sống ở các đảo có vị trí quan trọng. Đẩy mạnh việc tổ chức các đoàn tàu đánh bắt hải sản xa bờ, đồng thời có chính sách khuyến khích, bao tiêu sản phẩm, tổ chức dịch vụ và công tác bảo vệ bảo đảm cho ngư dân yên tâm làm ăn trên biển.
Ba là, đối với các địa phương có biên giới, biển đảo cần chủ động, phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, các bộ, ngành và địa phương trong cả nước để giải quyết các vấn đề liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ biên giới, biển đảo; phát huy cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, lực lượng vũ trang làm tham mưu, Bộ đội Biên phòng làm nòng cốt, chuyên trách trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng, quản lý, bảo vệ an ninh biên giới, biển đảo.
Rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến biên giới, biển đảo để kịp thời sửa đổi, bổ sung và ban hành những văn bản mới đáp ứng yêu cầu xây dựng, quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia trong thời kỳ hội nhập.
Bốn là, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, tập trung xây dựng lực lượng chuyên trách, nòng cốt là Bộ đội Biên phòng, vững mạnh chính quy, từng bước hiện đại làm nòng cốt cho công tác quản lý, bảo vệ biên giới, biển đảo. Nghiên cứu đầu tư xây dựng, trang bị vũ khí phương tiện, kỹ thuật đủ điều kiện thực thi nhiệm vụ trong tình hình mới; đồng thời, sớm có cơ chế phối hợp, hiệp đồng các lực lượng tạo sức mạnh tổng hợp trong quản lý bảo vệ biên giới, biển đảo.
Khái quát cương vực lãnh thổ Việt Nam qua các thời kỳ
Thời Hồng Bàng một số sử liệu cho rằng vào đầu thời kỳ Hồng Bàng, bộ tộc Việt có lãnh thổ rộng lớn từ phía nam sông Dương Tử (Trung Quốc) đến vùng Thanh Hóa.
Văn LangNhà nước Văn Lang của bộ tộc Lạc Việt hình thành trên vùng đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Mã và đồng bằng Sông Lam.
Âu LạcThục Phán sau khi chiếm được Văn Lang đã sát nhập vào đất của mình, nước Âu Lạc có lãnh thổ từ phía nam sông Tả Giang (Quảng Tây-Trung Quốc) kéo xuống dãy Hoành Sơn (Hà Tĩnh)
Thời Bắc Lãnh thổ của dân tộc Việt thời kỳ này, trong sự cai quản của chính quyền trung ương các triều đại Trung Hoa, tiến về phía nam đến vùng Hà Tĩnh hiện nay, thỉnh thoảng các quan cai trị Giao Chỉ (hoặc Giao Châu) tiến xuống phía nam đánh Chiêm Thành và đưa thêm vùng đất từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân vào cai trị nhưng không giữ được lâu vì sau đó Chiêm Thành thường lấy lại được. Ranh giới lãnh thổ về phía nam đôi khi được nhắc trong sử liệu là một cột mốc bằng đồng dựng lên bởi Mã Viện sau khi chinh phạt sự nổi dậy của Hai Bà Trưng, còn gọi là cột đồng Mã Viện.
Thời phong kiến tự chủ Lãnh thổ Đại Việt khoảng năm 1010 dưới thời nhà LýSau khi Khúc Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ năm 905, Việt Nam bắt đầu thời kỳ độc lập tự chủ. Việt Nam chính thức vào kỷ nguyên độc lập từ khi Ngô Quyền đánh bại nhà Nam Hán vào năm 938. Năm 968, Đinh Tiên Hoàng đặt quốc hiệu trở lại sau hơn 400 năm, là Đại Cồ Việt, sau đó Lý Thánh Tông đổi tên nước là Đại Việt năm 1054.Lãnh thổ Việt Nam thời kỳ đầu độc lập bao gồm khu vực Bắc Bộ và 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, tương đương với lãnh thổ cũ nước Văn Lang của các vua Hùng
Sáp nhập Tây-Bắc Năm 1014, tướng nước Đại Lý là Đoàn Kính Chí đem quân vào chiếm đóng châu Vị Long và châu Đô Kim (nay thuộc Tuyên Quang), vua Lý Thái Tổ sai con là Dực Thánh Vương đi đánh dẹp, quân Đại Lý đại bại, nhân cơ hội đó nhà Lý sát nhập luôn khu vực ngày nay là Hà Giang vào Đại Việt.Năm 1159, nhân khi nước Đại Lý suy yếu, vua Lý Anh Tông và Tô Hiến Thành đã tiến hành thu phục vùng đất của các tù trưởng dân tộc thiểu số người Thái ở bắc Yên Bái, nam Lào Cai vào lãnh thổ Đại Việt.
Năm 1478, vua Lê Thánh Tông, sau khi thu phục tiểu vương quốc Bồn Man của người Thái đã sát nhập vùng Sơn La, các huyện phía tây Thanh Hóa, Nghệ An và tỉnh Hủa Phăn của Lào ngày nay vào đất Đại Việt.
Quá trình Nam tiếnCác triều đại phong kiến của Việt Nam liên tục mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam. Nhà LýNăm 1069, Lý Thánh Tông nam chinh đánh Chiêm Thành và bắt được vua Chiêm là Chế Củ (Jaya Rudravarman) về Thăng Long. Để được tha vua Chiêm đã cắt vùng đất phía bắc Chiêm Thành gồm ba châu Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý cho Đại Việt, phần đất mà ngày nay là tỉnh Quảng Bình và bắc Quảng Trị. Nhà TrầnNăm 1306 vua Chế Mân (Jaya Simhavarman) của Chiêm Thành cắt đất hai châu Ô và Rí cho vua Trần Anh Tông để làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân của Đại Việt, vùng đất mà ngày nay là nam Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế. Biên giới phía nam của Đại Việt lúc này tiến đến đèo Hải Vân.Nhà Hậu LêNăm 1471 vua Lê Thánh Tông đưa 20 vạn quân tiến đánh vào kinh đô Vijaya (Bình Định) của Chiêm Thành, kinh đô Vijaya bị thất thủ. Lê Thánh Tông đã sát nhập vùng đất bắc Chiêm Thành vào Đại Việt (ngày nay là 3 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định). Phần đất còn lại của Chiêm Thành vua Lê Thánh Tông đã chia làm 3 vương quốc và giao cho tướng, hoàng thân còn lại của Chiêm Thành trấn giữ và có nghĩa vụ triều cống Đại Việt. Đến năm 1471 lãnh thổ phía nam của Đại Việt tiến đến đèo Cù Mông (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên ngày nay). Chúa Nguyễn (Đàng Trong)Thời kỳ Trịnh, Nguyễn phân tranh Do áp lực tấn công của các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và nhu cầu đất đai, các chúa Nguyễn đã tiến hành những đợt nam tiến, mở rộng lãnh thổ Đại Việt chưa từng thấy.Năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng tiến chiếm vùng đất của Chiêm Thành mà ngày nay là Phú Yên Năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần tiến chiếm vùng Khánh Hòa của Chiêm Thành. Năm 1693, tướng Nguyễn Hữu Cảnh tiến chiếm và chính thức sát nhập phần còn lại của vương quốc Chiêm Thành là Bình Thuận, Ninh Thuận, tuy nhiên chính quyền Đàng Trong vẫn dành cho người Chăm chế độ tự trị ở đây cho đến năm 1832. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào Sài Gòn lập dinh, chia trấn, bổ nhiệm quan lại chính thức đưa khu vực các tỉnh miền Đông Nam Bộ của Chân Lạp vào lãnh thổ Đàng Trong. Năm 1708, Mạc Cửu (thương nhân người Hoa) người khai phá vùng đất Hà Tiên, Kiên Giang (của Chân Lạp) xin nội thuộc chúa Nguyễn, chúa Nguyễn phong chức Tổng binh cai quản. Từ năm 1736-1739, Mạc Thiên Tứ (con Mạc Cửu) khai phá thêm vùng đất Cà Mau, Bạc Liêu, Cần Thơ (của Chân Lạp) đưa vào lãnh thổ Đàng Trong. Năm 1732, chúa Nguyễn Phúc Chú tiến chiếm và sát nhập vùng đất ngày nay là Vĩnh Long, Bến Tre. Năm 1756, vua Chân Lạp là Nặc Nguyên (Ang Tong) sau khi bị chúa Nguyễn Phúc Khoát đánh bại đã dâng vùng đất Tân An, Gò Công để cầu hòa
Năm 1757, vua Nặc Nguyên chết, chú là Nặc Nhuận dâng vùng đất Trà Vinh và Sóc Trăng để được chúa Nguyễn Phúc Khoát phong làm vua Chân Lạp. Sau khi Nặc Nhuận chết, chúa Nguyễn Phúc Khoát đã hỗ trợ Nặc Tôn (Outey II) lên ngôi và bảo vệ trước sự tấn công của Xiêm La, vua Nặc Tôn đã dâng vùng đất ngày nay là Châu Đốc, Sa Đéc cho chúa Nguyễn
Cùng với việc mở rộng lãnh thổ trên đất liền, chính quyền Đàng Trong lần lượt đưa người ra khai thác và kiểm soát các hòn đảo lớn và quần đảo trên biển Đông và vịnh Thái Lan. Quần đảo Hoàng Sa được khai thác và kiểm soát từ đầu thế kỷ 17, Côn Đảo từ năm 1704, Phú Quốc từ năm 1708 và quần đảo Trường Sa từ năm 1711[1]
Hoàn thiện lãnh thổ Năm 1816, vua Gia Long chính thức cho cắm cờ, xác lập chủ quyền, giao đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải thay mặt quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước đó khoảng 200 năm các chúa Nguyễn cũng đã lập đội Hoàng Sa hằng năm đi ra các đảo tìm kiếm sản vật
Năm 1830, vua Minh Mạng sát nhập vùng Tây Nguyên vào lãnh thổ Việt Nam, tuy nhiên các bộ tộc người Thượng vẫn được quyền tự trị của mình cho tới năm 1898 khi người Pháp trực tiếp tổ chức cai trị ở đây
Sau khi thành lập liên bang Đông Dương năm 1887, người Pháp đã có những tranh chấp với nhà Thanh (Trung Quốc) ở phía bắc về lãnh thổ. Tới năm 1895, từ công ước Pháp-Thanh 1895 đã đưa về phần lớn vùng đất Lai Châu, Điện Biên và một phần Lào Cai ngày nay thuộc về xứ Bắc kỳcòn một phần đất ở bắc sông Bắc Luân thuộc về nhà Thanh.Sâm Châu và Xiêng Khoảng bị cắt cho Lào.
Thời Pháp đô hộ Thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông Dương bao gồm:Bắc kỳ (Tonkin), từ Ninh Bình trở ra Trung kỳ (Annam), từ Thanh Hóa vào tới Bình ThuậnNam kỳ (Cochinchine), từ Đồng Nai tới Cà MauLào (Laos)Cao Miên (Cambodge)
Chiến tranh Việt NamTừ 1954 đến 1975, Việt Nam bị chia đôi tại vĩ tuyến 17: Miền Bắc là Việt Nam Dân chủ Cộng hòaMiền Nam là Việt Nam Cộng hòa
Việt Nam ngày nayViệt Nam ngày nayLãnh thổ Việt Nam ngày nay có hình chữ S chạy dài theo hướng Đông Nam của bán đảo Đông Dương, từ Hà Giang tới Cà Mau.Diện tích khoảng 331.690 km²Khoảng cách từ bắc tới nam là khoảng 1.650 kmĐường bờ biển dài 3.260 kmLãnh hải rộng lớn (Việt Nam tuyên bố 12 hải lý ranh giới lãnh hải, thêm 12 hải lý tiếp giáp nữa theo thông lệ và vùng an ninh, và 200 hải lý làm vùng đặc quyền kinh tế). Hai quần đảo lớn là Trường Sa, Hoàng Sa. Đảo lớn nhất là Phú Quốc và rất nhiều các hòn đảo nhỏ khác.
Quần đảo Hoàng Sa Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với Quần đảo Hoàng Sa, nhưng Hoàng Sa nay đang bị Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chiếm đóng từ sau Hải chiến Hoàng Sa, 1974.
Quần đảo Trường Sa Hiện Quần đảo Trường Sa đang bị nhiều quốc gia trong khu vực tranh chấp do có tiềm năng lớn về dầu khí và nguồn cá dồi dào. Việt Nam là quốc gia nắm giữ nhiều đảo nhất. Các quốc gia đang tranh chấp chủ quyền gồm: Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia, Brunei
BẢNG TÓM LƯỢC
QUỐC HIỆU – THỦ ĐÔ- LÃNH THỔ QUA CÁC THỜI KỲ
Thời gian |
Quốc Hiệu
|
Thủ đô
|
-300 |
Văn Lang (cuôi đời)
|
Phong Châu
|
-180 |
Âu Lạc (cuối đời)
|
Phong Khê
|
1 |
Quận Giao Chỉ (thuộc Hán)
|
(Long Biên)
|
40 |
Trưng Vương
|
Mê Linh
|
544 |
Vạn Xuân
|
Long Biên
|
938 |
(Ngô Quyền)
|
Cổ Loa
|
968 |
Đại Cồ Việt
|
Hoa Lư
|
1054 |
Đại Việt
|
Thăng Long
|
1407 |
Quận Giao Chỉ (thuộc Minh)
|
(Đông Đô)
|
1490 |
Đại Việt
|
Đông Kinh
|
1750 |
Đàng Ngoài 4 000 000 –
Đàng Trong 1. 500 000
|
Trung Đô
Thuận Hóa
|
1802 |
Việt Nam
|
Huế
|
1840 |
Việt Nam
|
Huế
|
1870 |
Việt Nam (kể cả Nam kỳ thuộc Pháp)
|
Huế-Sài Gòn
|
1901 |
Việt Nam Thuộc Pháp
|
Hà Nội- Huế
|
1943 |
Việt Nam Thuộc Pháp
|
Hà Nội- Huế
|
1962 |
Việt Nam (Dân chủ cộng hòa)17 000 000
Việt Nam cộng hòa 14. 275 000
|
Hà Nội – Sài Gòn
Sài Gòn
|
1976 |
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
|
Hà Nội
|
1994 |
Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
|
Hà Nội
|
1999 |
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
|
Hà Nội
|
Vấn đề lãnh thổ biên giới Việt Nam – Trung Quốc
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước diễn ra từ năm 1951 cho tới nay, bao gồm cả tranh chấp biên giới trên bộ và trên biển, xuất phát từ cách nhìn nhận khác nhau của hai bên về Công ước Pháp-Thanh 1887 giữa Pháp (đại diện cho Việt Nam) và nhà Thanh (đại diện cho Trung Quốc). Trên bộ, tranh chấp xảy ra trên nhiều mảnh lãnh thổ nhỏ dọc biên giới, với tổng diện tích khoảng 60km2. Trong những năm 1951-1975, chính phủ Việt Nam Cộng hòa bác bỏ những tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền lãnh thổ trên bộ và trên biển. Từ năm 1976, Việt Nam thể hiện lập trường tương tự. Tranh chấp lãnh thổ giữa hai quốc gia là một trong những nguyên nhân góp phần làm xảy ra cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung năm 1979. Năm 1999, hai nước ký kết Hiệp định biên giới, theo đó giải quyết tranh chấp trên 227km2 biên giới, với kết quả mỗi bên nhận xấp xỉ 50% diện tích có tranh chấp.
Hình 1: Bản đồ Việt Nam cổ Hình 2: Bản đồ cột mốc biên giới Việt Nam-Trung Quốc
theo Hiệp ước Pháp-Thanh 1887
- Bối cảnh lịch sử
– Giai đoạn trước 1945
Việt Nam giành lại được độc lập từ Trung Quốc từ năm 939. Bản đồ cổ của Trung Quốc từ thế kỷ thứ 4 và từ nhà Hán cho đến nhà Chu cho biết biên cương Việt Nam bao gồm cả tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây, Vân Nam và đảo Hải Nam tức là cả vùng Vịnh Bắc Bộ đều thuộc Việt Nam [các bản đồ cổ này được các thư viện đại học tồn trữ và được in lại trong Encyclopedia Britannica, 15th Edi., Vol. 16, pp.82-96]. Một ngàn năm vừa qua Trung Quốc đã lấn chiếm nhiều đất đai của Việt Nam như Quảng Ðông, Quảng Tây, Vân Nam (Yunnan) và đảo Hải Nam. Vua Quang Trung đã từng dự tính chinh phục lại lưỡng quảng (Quảng Ðông và Quảng Tây) nhưng rất tiếc ông qua đời đột ngột (1792) sau khi đã làm quân dân nhà Thanh khiếp đảm với chiến thắng Ðống Ða thần tốc vào năm 1789.
Hiệp Ước Thiên Tân 1885 và Công Ước 1887, 1895 ký kết giữa nhà Thanh (Trung Quốc) và Thực dân Pháp trái phép công nhận 750km vuông của tổng Tụ Long ở Vân Nam cũng như mũi Bắc Luân (Packlung) ở Quảng Ðông là của Trung Quốc.
-Giai đoạn 1945 tới 1979
Kể từ khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập năm 1945, biên giới Việt Trung trải qua một giai đoạn dài tương đối yên bình. Biên giới giữa hai nước là đường biên giới Pháp-Thanh phân định năm 1887, theo đó trên tuyến biên giới có 333 cột mốc. Tuy nhiên các cột mốc biên giới này không được coi sóc cẩn thận, một số cột mốc bị thời gian làm hư hại, hoặc “bị dịch chuyển về phía nam, nhưng Việt Nam khi đó đang tập trung vào cuộc Chiến tranh giữ nước, Trong những năm 1970, tình hình thay đổi, Trung Quốc tỏ ý muốn giải quyết vấn đề biên giới theo hướng có lợi cho họ. Đây cũng là cách mà Trung Quốc dùng để thăm dò thái độ của Việt Nam với Trung Quốc trong tương quan với Liên Xô. Trung Quốc cho rằng nếu những bất đồng về vấn đề biên giới trên bộ, cũng như chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được giải quyết thì uy tín và vị thế của Trung Quốc trong mối liên hệ tay ba Việt Nam-Trung Quốc-Liên Xô sẽ tăng lên, và giảm thiểu khả năng Liên Xô sử dụng vấn đề tranh chấp lãnh thổ để lôi kéo Việt Nam và gây hiềm khích Việt Nam-Trung Quốc. Vì lẽ đó, Trung Quốc có lẽ đã bị bất ngờ khi Việt Nam từ chối đàm phán với Trung Quốc ở cấp cao để giải quyết mâu thuẫn lãnh thổ, lấy lý do “còn quá nhiều việc phải làm để giải phóng miền Nam”. [9] Theo Robert Ross, lý do của hành động này có lẽ là Việt Nam muốn trì hoãn đàm phán, chờ khi vị thế của mình được nâng lên với sự ủng hộ từ Liên Xô, để làm đối trọng với Trung Quốc[10].
Tháng một năm 1974, hải quân Trung Quốc đụng độ với hải quân Việt Nam Cộng hòa tại Hoàng Sa và chiếm đóng các đảo này. Tới đầu tháng hai năm 1974, đến lượt hải quân Việt Nam Cộng hòa đổ bộ và chiếm giữ sáu đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Tới sau năm 1975, tới lượt Việt Nam muốn đặt vấn đề đàm phán lại đường biên giới được phân định theo Hiệp định Pháp-Thanh, đặt vấn đề đường biên giới lịch sử với 15 vùng lãnh thổ nhỏ tại Vân Nam và Quảng Tây.[8][12] Những đòi hỏi này khiến Trung Quốc bực tức, góp phần làm quan hệ hai nước trở nên xấu đi. Cho tới đầu năm 1978, đã có hàng trăm vụ xung đột vũ trang trên biên giới diễn ra, với mật độ ngày càng cao.
Trong khoảng thời gian từ tháng 4 cho tới tháng 8 năm 1978, quan hệ giữa hai nước trở nên đặc biệt xấu. Cùng với cuộc khủng hoảng Hoa kiều, vấn đề Campuchia, quan hệ Việt Nam-Liên Xô và các vụ tranh chấp biên giới, Trung Quốc không còn giữ thái độ kiềm chế mà bắt đầu lớn tiếng đe dọa, buộc Hà Nội phải chấp thuận các yêu sách từ Trung Quốc. Trung Quốc bắt đầu tính đến khả năng dùng vũ lực để đối phó với Việt Nam. Ngày 3 tháng 11 năm 1978, Việt Nam ký kết Hiệp ước Hợp tác và Hữu nghị với Liên Xô, ngay sau đó, Nhân dân Nhật báo của Trung Quốc bắt đầu đăng các bài tố cáo Việt Nam tiến hành xâm phạm và khiêu khích trên biên giới với Trung Quốc[14][15].
Về phần mình, Việt Nam cũng có những lý do chính đáng để tỏ ra không hài lòng với Trung Quốc. Việt Nam cho biết, phía Trung Quốc thực hiện chính sách dịch chuyển các cột mốc biên giới tại rất nhiều điểm vào sâu trong nội địa Việt Nam, cũng như sử dụng lực lượng vũ trang hộ tống dân cư Trung Quốc lấn sang đất Việt Nam[16][17]. Một trong những địa điểm tranh chấp quan trọng nhất là 300m đường sắt vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam từ điểm nối đường ray cho tới trạm kiểm soát biên giới gần Hữu Nghị Quan, do công nhân Trung Quốc bảo dưỡng với sự chấp thuận của Việt Nam từ năm 1955[16]. Phía Trung Quốc tố cáo Việt Nam lấn chiếm nơi này, còn Việt Nam tố cáo Trung Quốc lợi dụng lòng tin của Việt Nam đặt điểm nối đường ray vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam để lấn chiếm đất. Việt Nam cũng tố cáo Trung Quốc phá hủy cột mốc số 18 và dịch chuyển cột km số 0 vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam 100m[18]
– Giai đoạn từ sau 1979
Sau chiến tranh biên giới 1979, mặc dù tuyên bố rút quân, nhưng quân Trung Quốc vẫn chiếm đóng khoảng 60km2 lãnh thổ biên giới có tranh chấp mà trước đó Việt Nam kiểm soát, trong đó có 300m đường xe lửa giữa Hữu Nghị Quan và trạm kiểm soát biên giới Việt Nam.[19]. Trung Quốc cũng chiếm một số điểm cao chiến lược dọc biên giới Việt Nam, nhằm làm bàn đạp cho các cuộc tấn công quân sự sau này.[20]
Hình 4 Hình: 3
– Hình;3 Vùng quanh Bình Liêu nơi Trung Quốc tiến hành lấ chiếm
– Hình: 4 Cột mốc biên giới Việt Nam – Trung Quốc số 53 thời Pháp – Thanh, với hàng chữ Trung Quốc: (Trung Quốc – Quảng Tây giới) và hàng chữ Pháp: Frontière sino-annamite (Biên giới Trung Quốc – An Nam).
Kể từ nửa sau năm 1988, tình hình căng thẳng trên biên giới hai nước lắng xuống, rồi tới cuối năm các hoạt động buôn bán qua lại biên giới bắt đầu trở lại. Hai phía bắt đầu nối lại các hoạt động đàm phán về bình thường hóa quan hệ và giải quyết vấn đề biên giới. Quan hệ giữa hai nước đặc trưng bởi hình ảnh hữu hảo của các chuyến viếng thăm cao cấp qua lại giữa hai nước, diễn ra đồng thời với sự căng thẳng liên quan đến chủ quyền lãnh thổ, đặc biệt là trên biển Đông[21], cả hai bên tiếp tục tuyên bố khẳng định chủ quyền trên các vùng có tranh chấp.
Trên bộ, sự kiện nghiêm trọng nhất là việc tháng 5 năm 1997 Trung Quốc cho xây dựng một bờ kè kéo dài một cây số tại khúc sông chảy qua Đồng Mô, thuộc huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh đối diện với khu Fangcheng, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Theo Việt Nam, việc làm này vi phạm Thỏa ước tạm thời giữa hai phía không thay đổi nguyên trạng hiện trường, gây hại đến hệ thống thủy lợi tưới tiêu, cũng như làm xói lở đất bên bờ sông thuộc Việt Nam. Để đáp lại, tới tháng 9 cùng năm, Việt Nam cho xây một bờ kè đá để chống xói lở. Tới tháng 11, Trung Quốc cho lấp khúc sông biên giới, và như vậy đã lấn vào lãnh thổ Việt Nam hai hecta. [22]. Điều đáng nói là các hoạt động trên diễn ra tại khu vực mà theo phía Việt Nam là biên giới xác định rõ ràng, tức trước dó không có tranh chấp. Tại vòng đàm phán thứ 11 về biên giới vụ việc này được đặt ra, nhưng không có thông tin cho biết liệu hai bên có đi đến giải pháp nào cho khu vực này.[23]
– Tranh cãi và nghi vấn quanh Hiệp định biên giới
Từ đầu năm 1990, Trung Quốc và Việt Nam bắt đầu tiến hành đàm phán để giải quyết vấn đề biên giới. Hai bên đạt được các thỏa thận trên nguyên tắc năm 1993 để giải quyết các bất đồng, nhưng do sự thù địch giữa hai phía do cuộc chiến tranh 1979 để lại, cộng với cả một thập kỷ xung đột biên giới, khiến cho mãi tới năm 1999 hai bên mới đạt được những thỏa thuận cuối cùng. Trong số những trở ngại cho việc ký kết hiệp định cũng phải kể đến vấn đề tháo dỡ mìn trên biên giới, và sự chống đối từ nội bộ của cả hai phía về việc nhượng bộ cho đối thủ cũ của mình[24].
Việc hai nước ký kết bản Hiệp định góp phần đóng lại một chương quan trọng trong lịch sử quan hệ Việt Nam-Trung Quốc, đánh dấu bởi sự thù nghịch và các cuộc xung đột vũ trang đẫm máu. Tuy nhiên, bản Hiệp định này không đồng nghĩa với việc kết thúc các khó khăn trong việc xác định chính xác đường biên được hoạch định trên giấy tờ, cũng như căng thẳng tại một số vị trí cột mốc biên giới, và vấn đề buôn lậu qua biên giới.[7]
Bản Hiệp định này, cộng với Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ làm dấy lên những cuộc tranh cãi gay gắt tại Việt Nam, vì theo như bản hiệp định này, đường biên giới mới khiến Trung Quốc giành được quyền sở hữu một số vùng lãnh thổ mà trước đó Việt Nam tuyên bố chủ quyền.[7]Sự giận dữ này không phải là không có lý, nhưng phải thừa nhận là Trung Quốc không áp đặt được tham vọng bành trướng của mình lên Việt Nam qua bản Hiệp định.[7] Theo như Carlson, bản Hiệp định là kết quả thỏa hiệp đến từ cả hai phía.[7] Vấn đề lãnh thổ trên Biển Đông mới thực sự là vấn đề mà cả hai phía có sự bất đồng sâu sắc khó giải quyết. Trung Quốc qua việc giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ biên giới trên bộ thể hiện lập trường linh hoạt, giảm bớt vẻ hung hăng trong đàm phán với Việt Nam.[25]
Thứ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam Lê Công Phụng, Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới, lãnh thổ Việt Nam – Trung Quốc[6] cho biết: tại thác Bản Giốc, Việt Nam chỉ có 1/3 thác, nhưng nhờ thương thuyết cho nên Trung Quốc nhượng bộ, thành ra Việt Nam được 1/2 thác.
– Kết quả Hiệp định biên giới năm 1999
Theo Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Dũng, đến 31/12/2008, hai bên đã phân giới khoảng 1.400km biên giới, cắm 1.971 cột mốc, [28] trong đó có 1.549 cột mốc chính và 422 cột mốc phụ. Toàn bộ 38 chốt quân sự trên đường biên giới đều đã được dỡ bỏ. Tại cửa khẩu Hữu Nghị Quan, Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành cắm mốc 1117 trùng với vị trí mốc 19 cũ, đường biên giới đi qua Km số 0, mốc 19 cũ đến điểm cách điểm nối ray hiện tại 148m.[29] Một nhượng bộ lớn của Việt Nam là khoảng cách 300 m cuối tuyến đường sắt từ Đồng Đăng đến đường biên giới cũ đã phải cắt cho Trung Quốc.[30]
Hình 5
Khu vực cửa sông Bắc Luân năm 1888. Công ước năm 1887
giữa Pháp và nhà Thanh lấy cửa sông này làm đường biên giới
Tại khu vực thác Bản Giốc, theo quy định của Hiệp ước 1999, hai nước điều chỉnh đường biên giới đi qua cồn Pò Thoong, qua dấu tích trạm thủy văn xây dựng những năm 1960, quy thuộc 1/4 cồn, 1/2 thác chính và toàn bộ thác cao cho Việt Nam.[31]
Tại cửa sông Bắc Luân, biên giới quy thuộc 3/4 bãi Tục Lãm và 1/3 bãi Dậu Gót cho Việt Nam, 1/4 bãi Tục Lãm và 2/3 bãi Dậu Gót cho Trung Quốc, và thiết lập khu giao thông đường thuỷ tự do cho nhân dân địa phương sử dụng luồng hai bên bãi Tục Lãm và Dậu Gót. Tại khu vực Hoành Mô, đường biên giới đi giữa ngầm như từ trước đến nay chứ không theo trung tuyến dòng chảy qua cống mới do Trung Quốc xây dựng những năm 1960. Khu vực mồ mả ở mốc 53 – 54 cũ (Cao Bằng) được giữ lại cho người dân Việt Nam mặc dù hai bên có nhận thức khác nhau về quy định của Hiệp ước 1999 về biên giới khu vực này đi theo chân núi. Khu vực rừng hồi người dân Trung Quốc trồng gần biên giới Quảng Ninh được bảo lưu cho phía Trung Quốc.[31]
Theo Hiệp ước 1999, đường biên giới cắt ngang qua bản Ma Lỳ Sán (gồm 05 hộ, 35 khẩu thuộc tỉnh Hà Giang) và khu 13 nóc nhà của người dân Trung Quốc gần Lạng Sơn, hai bên hoán đổi cho nhau trên cơ sở cân bằng diện tích, không xáo trộn đời sống dân cư…[31]
– Các vấn đề tranh cãi về Vịnh Bắc Bộ
Vịnh Bắc-Việt trong thời cổ hoàn toàn thuộc chủ quyền Việt-Nam. Ngoài Sử cổ của Việt Nam, Sử Trung Hoa cũng ghi nhận vùng biển này là Biển Giao Chỉ hay Giao Chỉ Dương. Không những tên biển được xác-nhận rõ-ràng, mà theo nhà Địa-lý-Học Edward H. H, Schafer, ngay cả tên đảo Hải-Nam – đảo tiếp-giáp – cũng một thời có nghiã là tỉnh của Việt-Nam. Ông viết trong cuốn sách tựa đề Châu-Nhai “Shore Of Pearls” (Berkley & London 1970, trang 9) như sau : “In Han period, when it (Hainan) begins to appear in Chinese texts, “South Of the Sea” referred to the Vietnamese provinces, as we would style them…” Về hải-thương, Schafer ghi-nhận hầu hết sản-phẩm được đưa tới bằng đường biển. Thuyền từ phía Tây-Nam là Đại-Việt vượt ngang Giao-Chỉ-Dương để đến đây. “Southwest of Hainan is that great sea called “Chiao-Chih Ocean”
Trong năm ký kết Công Ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982, Nhà cầm quyền CHXHCN Việt Nam đã chính thức xác định biên giới lãnh hải (maritime frontier – của Việt Nam trong Vịnh Bắc Bộ theo Công Ước 1887 tức là 63 % diện tích vịnh qua văn thư công bố với cộng đồng quốc tế vào tháng 11-/982 (Statement of 12 November 1982, đd).. Và vào năm 1994 khi Quốc Hội CHXHCN Việt Nam thông qua Công Ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982, trong bài The South China Sea Disputes : A View From Vietnam trên báo American Asian Review, Vol. 12, No. 4, Winter, 1994 (pp. 23-37), Ðào Huy Ngọc của Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN cũng xác nhận đòi hỏi chủ quyền lãnh hải (sea boundary) của Việt Nam trong Vịnh Bắc Bộ là 63 % diện tích vịnh.Tuy nhiên theo Hiệp định phân chia Vịnh Bắc bộ, Việt Nam hiện chỉ chiếm 50% diện tích Vịnh.
Ý nghĩa của việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc:
Việc giải quyết dứt điểm vấn đề biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc là sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại trong quan hệ hai nước. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước xác định được một đường biên giới rõ ràng trên đất liền với một hệ thống mốc giới hiện đại, đặt nền tảng vững chắc cho việc xây dựng đường biên giới Việt – Trung thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, lâu dài, hợp tác và phát triển, mở ra một trang mới trong lịch sử quan hệ Việt Nam – Trung Quốc. Ý nghĩa của việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền thể hiện trên một số điểm sau đây:
Thứ nhất, ta đã giải quyết hai trong ba vấn đề lớn do lịch sử để lại trong quan hệ Việt – Trung. Đó là giải quyết dứt điểm vấn đề biên giới trên đất liền và vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ, chỉ còn lại vấn đề Biển Đông. Những kinh nghiệm giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền sẽ tạo cơ sở cho việc đàm phán giải quyết vấn đề trên biển giữa hai nước.
Hai là, việc xác định một đường biên giới rõ ràng trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc tạo cơ sở để các ngành chức năng tiến hành quản lý biên giới một cách hiệu quả, ngăn ngừa hiện tượng xâm canh, xâm cư do thiếu hiểu biết về đường biên giới; mở ra cơ hội mới cho công cuộc phát triển của mỗi nước, đặc biệt là tạo điều kiện cho các địa phương biên giới hai bên mở rộng hợp tác, phát triển kinh tế, tăng cường giao lưu hữu nghị.
Ba là, việc hoàn thành giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền là biểu hiện sinh động của mối quan hệ “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” Việt Nam – Trung Quốc, góp phần gia tăng sự tin cậy giữa hai bên, tạo động lực mới thúc đẩy quan hệ Việt – Trung phát triển mạnh mẽ hơn, vững chắc hơn.
Bốn là, trên bình diện quốc tế và khu vực, việc giải quyết dứt điểm vấn đề biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc là sự đóng góp thiết thực đối với hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực, góp phần khẳng định các nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế: giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ bằng thương lượng hòa bình; không sử dụng vũ lực, hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong giải quyết tranh chấp quốc tế./.
Chú thích
- ^ Pao-Min Chang, trang 11-12
- ^ Edward C. O’dowd, trang 91
- ^ Paul K. Huth, trang 232
- ^ Bruce Elleman, trang 293
- ^ Taylor Fravel, Bảng 1
- ^ a b c d Hiệp ước Biên giới trên đất liền, HĐ phân định Vịnh Bắc Bộ VN-TQ Cập nhật 04/10/2002
- ^ a b c d e Allen Carlson, trang 88
- ^ a b c Mark A Ryan, tr 224-225
- ^ Robert Ross, trang 37
- ^ Robert Samuel Ross, trang 242: Trung Quốc muốn đàm phán lại đường biên giới theo sự thay đổi dân cư sống tại biên giới. Hà Nội lo ngại Trung Quốc muốn tranh giành lãnh thổ Việt Nam, nên khi đàm phán bắt đầu vào cuối năm 1977, Việt Nam cho rằng không có “tranh chấp” biên giới giữa hai nước, rằng Hiệp ước Pháp-Thanh cũng đã xác đáng, rằng đường biên chỉ cần vẽ lại theo hiệp ước cũ, và người dân nước nào sống trên vùng biên giới nước kia cần phải được tái định cư trên nước họ
- ^ Stephen J. Morris, trang 172
- ^ ‘Vấn đề biên giới giữa Việt Nam-Trung Quốc’, trang 7: Để đẩy nhanh quá trình thương lượng, Pháp đã nhượng cho nhà Thanh mũi Bắc Luân, vùng Giang Bình, tổng Bát Tràng-Kiến Duyên, tổng Đèo Luông, tổng Tụ Long, và một số nơi khác
- ^ Robert Ross, trang 151
- ^ Robert Ross, trang 204
- ^ Theo tài liệu của CIA “The Sino-Vietnamese border dispute”, Việt Nam đơn phương tiến hành xây dựng các vị trí bố phòng, rào chông chà, đào hào, hố cá nhân, dựng lên một tuyến phòng thủ kéo dài trên khắp các làng dọc biên giới kéo dài 1.285km. Các hoạt động của Việt Nam bị Trung Quốc coi là các hoạt động khiêu khích, đặc biệt là khi ở một số nơi, các vị trí bố phòng và hàng rào chông chà của Việt Nam tùy tiện đi qua các khu vực có tranh chấp, phá vỡ nguyên trạng khu vực. Các khu vực mà Việt Nam “chiếm đóng” không lớn, nhưng với Bắc Kinh, việc Việt Nam ngang nhiên chiếm giữ bất kỳ vùng lãnh thổ nào dù nhỏ, cũng là không thể tha thứ được
- ^ a b Theo tài liệu của CIA “The Sino-Vietnamese border dispute”, trang 5
- ^ “Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc”, trang 13
- ^ “Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc”, trang 10
- ^ Ramses Amer, The Managemement of the Border Disputes Between China and Vietnam and its Regional Implications, (Oct 2000), Europian Institute of Asian Studies
- ^ Nayan Chanda, End of the Battle but Not of the War, Far Eastern Economic Review, 16 March 1979, trang 10
- ^ Carlyle A. Thayer (1999), trang 79-80
- ^ Carlyle A. Thayer (1999), Ramses Amer, trang 79-80
- ^ Ramses Amer(2000) trang 22-24
- ^ Taylor Fravel cho biết Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc rút đại diện của mình khỏi đoàn công tác liên hợp để phản đối những việc mà họ cho là nhân nhượng với Việt Nam, trang 77
- ^ Allen Carlson, trang 90
- ^ a b c Stein Tønnesson, Sino-Vietnamese Rapprochement and the South China Sea Irritant, Security Dialog, SAGE Publications,
- sagepublications.com Vol. 34(1): 55–70, ISSN 0967-0106 [032677]
- ^ “Trung Quốc mạnh mẽ ủng hộ VN sớm gia nhập WTO” 01:16′ 16/07/2005 (GMT+7)
- ^ http://vietnamnet.vn/chinhtri/2009/02/831349/ Cập nhật 23/02/2009
- ^ [1] Cập nhật 02/01/2009 [2] 25/02/2009, Báo Việt Nam Net,
- ^ [www.eias.org/publications/briefing/2000/borderdisputes.pdf Tranh chấp biên giới Việt-Hoa (tiếng Anh)]
Đường Lưỡi Bò trên Biển Đông và Luật quốc tế
Ls. Hoàng Việt
(Đại học Luật TP. HCM)
“…Bản chất thực sự của yêu sách này vẫn đang bị bao phủ bởi sự bí ẩn, cả Trung Quốc và Đài Loan đều mập mờ với các tuyên bố không rõ ràng. Tuy nhiên, những hoạt động của Trung Quốc cho thấy Trung Quốc thực tế đang yêu sách tất cả các vùng nước và tài nguyên nằm trong vùng biển này…”
- Đặt vấn đề
Cuộc tranh chấp biển Đông vẫn đang là một “nguy cơ” gây bất ổn trong khu vực. Tranh chấp biển Đông đã trở thành một trong những cuộc tranh chấp phức tạp bậc nhất trên thế giới. Sự phức tạp của tranh chấp biển Đông đến từ các yêu sách phức tạp về chủ quyền của nhiều quốc gia đối với các khu vực chồng lấn, vả lại, nó không chỉ đơn thuần là tranh chấp về mặt luật pháp quốc tế về biên giới biển, lãnh thổ trên biển mà hơn thế nữa nó còn được đan xen với những lợi ích về địa – chính trị, về kiểm soát con đường vận tải biển chiến lược, và về khai thác các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là dầu mỏ.
Cuộc va chạm mới đây giữa một chiếc tàu nghiên cứu hải dương của Mỹ với 5 tàu chiến Trung Quốc, sau đó là cuộc khẩu chiến trên các báo của hai bên, phía Mỹ giải thích vùng biển này là biển quốc tế, tàu Mỹ có quyền thực hiện các nghiên cứu biển trong vùng đó, còn Trung Quốc khẳng định đây là vùng biển thuộc chủ quyền của họ. Rồi việc Trung Quốc đã gửi Công hàm lên Liên Hợp Quốc để phản đối Báo cáo về thềm lục địa của Việt Nam cùng Malaysia, cũng như Báo cáo của riêng Việt Nam. Rồi việc Trung Quốc thi hành lệnh cấm đánh bắt cá từ ngày 16/5/2009 bằng cách tăng cường lực lượng tàu ngư chính xuống biển Đông, đề xuất của Hải quân Trung Quốc phân chia quyền kiểm soát Thái Bình Dương giữa Trung Quốc và Mỹ, tới tuyên bố của CNOOC ngày 16/6/2009 sẽ tiến hành khoan sâu thăm dò khai thác trong Biển Đông trong năm 2009. Vấn đề này lại làm nóng lên yêu sách của Trung Quốc về các đảo, đá và vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” gây nhiều tranh cãi.
Thực tế cho thấy tranh chấp các đảo trong biển Đông đã trở thành một trong những vấn đề an ninh quan trọng nhất trong khu vực do Trung Quốc yêu sách gần 80% biển Đông là vùng nước lịch sử của họ sẽ có tác động rất lớn đến việc phân định các đường biên giới biển của khu vực này trong tương lai, và cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ cũng như quyền lợi trên biển của Việt Nam. Do đó, nhu cầu nghiên cứu vấn đề này là một vấn đề cần thiết.
Bản đồ đường lưỡi bò của Trung Quốc
- Các yêu sách về “đường lưỡi bò”
Yêu sách về “đường lưỡi bò” được đưa ra một cách không chính thức từ hai chính quyền: một là Cộng Hoà Trung Hoa, sau thất bại năm 1949 phải chạy ra Đài Loan (từ thời điểm này gọi là chính quyền Đài Loan), và từ chính quyền Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa được thành lập từ năm 1949 tới nay (gọi tắt là chính quyền Trung Quốc).
- Yêu sách về đường lưỡi bò của Cộng Hoà Trung Hoa
Theo một số học giả cả ở Trung Quốc và ở Đài Loan [1] thì năm 1935, để đối phó với yêu sách của Pháp đối với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa, Cộng hoà Trung hoa đã cho xuất bản một bản đồ chính thức đầu tiên là Zhongguo Nanhai gedao yu tu (Bản đồ các đảo trên Nam Hải), bản đồ này chưa thể hiện “đường lưỡi bò”. Tháng 2 năm 1947, Bộ nội vụ đã tiếp tục cho xuất bản Bảng tài liệu tra cứu tên cũ của các đảo biển ở biển Đông, trong đó liệt kê 159 đảo, đá. Sau đó, tháng 1 năm 1948, Bộ Nội Vụ nước Cộng Hoà Trung Hoa chính thức công bố một bản đồ có tên Nanhai zhudao weizhi tu (Bản đồ các đảo trên Nam Hải), tháng 2 năm 1948 bản đồ này được xuất bản chính thức, trên bản đồ này có xuất hiện một đường mà Trung Hoa gọi là đường hình chữ “U”, một số học giả gọi nó là “đường lưỡi bò” bởi nó nhìn giống một cái lưỡi bò liếm xuống biển Đông [2], đường này được thể hiện trên bản đồ lúc này là một đường đứt khúc bao gồm 11 đoạn. Trong bản đồ đó đường chữ “U” hay “đường lưỡi bò” này được thể hiện bao trùm xung quanh cả bốn nhóm quần đảo, bãi ngầm lớn trên biển Đông, đó là các quần đảo Hoàng Sa (Paracels), Trường Sa (Spratlys) và Pratas (Trung Quốc gọi là Đông Sa) và bãi cạn Macclesfield (Trung Quốc gọi là Trung Sa).
“Đường lưỡi bò” này xuất phát từ biên giới đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ, chạy xuống phía Nam tương tự như hình dáng của bờ biển Đông và Đông Nam Việt Nam tới cực Nam của bãi đá san hô Scaborough Shoal (Tăng Mẫu) và sau đó quay ngược lên phía Bắc theo hướng đi song song với đường bờ biển phía Tây Sabah của Malaysia và Palawan của Philippines và quần đảo Luzon, kết thúc tại khoảng giữa eo Bashi nằm giữa Đài Loan và Philippines. Đường này được vẽ tùy tiện và không có tọa độ xác định chính xác [3].
Năm 1988, sau cuộc đụng độ giữa hải quân của Trung Quốc và Việt Nam, một nhóm học giả của Đài Loan đã được tập trung lại để nghiên cứu về vấn đề “vùng nước lịch sử” và bản chất pháp lý của “đường lưỡi bò”.
Một học giả của Đài Loan là Tống Yến Huy (Yann Huei Song) sau khi tổng kết các quan điểm của các học giả Đài Loan trong nhóm nghiên cứu cho biết có hai nhóm ý kiến về vấn đề này [4]: Một nhóm cho rằng vùng nước được bao bọc trong “đường lưỡi bò” được coi như là “vùng nước lịch sử” của Cộng Hoà Trung Hoa. Lập luận này được chứng tỏ bởi hai lý do, thứ nhất, khi bản đồ được xuất bản vào năm 1948, không có sự phản đối cũng như không có phản ứng nào được đưa ra, thứ hai, việc yêu sách các vùng nước bị bao bọc như là vùng nước lịch sử đã không vi phạm Điều 4 (1) của UNCLOS (Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982). Nhóm thứ hai thì chống lại quan điểm này, họ cho rằng yêu sách vùng nước lịch sử của Cộng Hoà Trung Hoa khó có thể biện minh được: đó là “đường lưỡi bò” được vạch ra một cách tùy tiện, không thể định vị đường này trên biển vì thiếu hệ thống tọa độ cũng như khái niệm về vùng nước lịch sử đã trở nên lỗi thời, khó có thể sử dụng để trợ giúp cho yêu sách của chính quyền Đài Loan.
Tuy nhiên, cuối cùng Ủy ban nghiên cứu về vấn đề này của Đài Loan đã chấp thuận với quan điểm của nhóm đầu tiên.
- Yêu sách về đường lưỡi bò của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa
Trung Quốc đưa ra những yêu sách về “đường lưỡi bò” dựa theo quan điểm của bản đồ xuất hiện đường lưỡi bò đầu tiên của Cộng Hoà Trung Hoa năm 1948.
Năm 1949, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời, quốc gia này sau đó thay thế Cộng Hoà Trung Hoa trở thành thành viên thường trực của Hội đồng Bảo An Liên Hợp Quốc. Năm 1949, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa cũng cho ấn hành một bản đồ, trong đó “đường lưỡi bò” được thể hiện giống như trên bản đồ trước đó gồm 11 đoạn.
Tuy nhiên, đến năm 1953, bản đồ vẽ “đường lưỡi bò” của Trung Quốc xuất bản chỉ còn 9 đoạn. Trong suốt một thời gian dài, mặc dù cho xuất bản bản đồ có thể hiện “đường lưỡi bò” như trên, nhưng cả Chính phủ Cộng Hoà Trung Hoa lẫn Chính Phủ Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa chưa bao giờ đưa ra lời tuyên bố hoặc giải thích chính thức gì về “đường lưỡi bò” đó cả.
Năm 2003, Li Jin Ming và Li De Xia của trường đại học Hạ Môn (Trung Quốc) đã công bố một bài viết đăng trên tạp chí Ocean Development & International Law, tiếp tục trình bày và làm rõ về lập luận đối với “đường lưỡi bò” này. Hai học giả này đã tổng kết một số quan điểm của các học giả Trung Quốc, trong đó hầu hết là khẳng định về chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo và các vùng nước xung quanh các đảo đó nằm trong “đường lưỡi bò”. Các học giả Trung Quốc này được hai học giả trích dẫn như Cao Chí Quốc (Gao Zhiguo), Viện trưởng Viện chiến lược phát triển biển, Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc cho rằng đường này yêu sách sở hữu các đảo nằm bên trong hơn là một đường biên giới biển. Ông ta nhận xét:. Mặc dù “Trung Quốc chưa bao giờ yêu sách toàn bộ các cột nước của vùng biển Đông”, nhưng “tất cả các đảo và vùng nước kế cận trong đường biên giới này phải thuộc quyền tài phán và kiểm soát của Trung Quốc” [5].
Zou Keyuan cho rằng yêu sách của Trung Quốc không nên xem như yêu sách vùng nước lịch sử theo nghĩa truyền thống mà giống như một dạng yêu sách các quyền chủ quyền và quyền tài phán lịch sử chứ không phải là yêu sách chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối. Nói cách khác, đây là sự nguỵ biện liên hệ đường lưỡi bò với các khái niệm quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của luật biển hiện đại.
Tháng 7 năm 1996, nhà xuất bản Thông tin kinh tế Hồng Kông cho xuất bản cuốn The petropolitics of the Nansa islands – China’s indisputable legal case của Phan Thạch Anh (Pan Shi Ying) [6], theo lời của ông ta thì “chính phủ Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa thông qua việc ấn bản các bản đồ này muốn gửi ba thông điệp tới cộng đồng quốc tế:
- Khu vực nằm trong đường biên giới này là các đảo, đá và các vùng nước kế cận của chúng đã thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc trong lịch sử.
- Phù hợp với các công ước quốc tế, vị trí và hướng đi của con đường đứt khúc 11 đoạn này (sau thay bằng 9 đoạn) đã được vạch ra theo cách gần như là đường cách đều giữa rìa ngoài của bốn quần đảo trong biển Nam Trung Hoa và đường bờ biển của các quốc gia kế cận. Điều này đã và đang là hợp pháp vào thời gian đó của chiếm cứ, chiếm hữu và quản lý.
- Thực tiễn sử dụng các đường đứt khúc hơn là một đường liên tục để đánh dấu một số các khu vực chủ chốt đã chỉ ra thực chất của việc “chưa dứt điểm” để lại những khả năng đưa ra những điều chỉnh cần thiết trong tương lai.
Nói cách khác vùng nước do con đường này bao bọc là vùng nước lịch sử theo chế độ nội thuỷ của Trung Quốc. Con đường này chỉ là hình thức, còn danh nghĩa lịch sử của Trung Quốc trên vùng biển này mới là nội dung.
Như vậy, lập luận về chủ quyền đối với các đảo, đá, bãi nằm trong “đường lưỡi bò” cũng như bản chất pháp lý của “đường lưỡi bò” của Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa đều bắt nguồn từ bản đồ đầu tiên thể hiện đường này của Cộng Hoà Trung Hoa trước đó, tuy nhiên quan điểm của họ về tính chất pháp lý của “đường lưỡi bò” này như thế nào lại có nhiều quan điểm khác biệt.
III. Phân tích các yêu sách về “đường lưỡi bò”theo luật quốc tế
- Yêu sách của Cộng hoà Trung Hoa
Khái niệm “vịnh lịch sử” hay “vùng nước lịch sử” mà ở đó một quốc gia thực hiện quyền lực thuộc chủ quyền của mình đã được luật pháp quốc tế chấp nhận trong một số hoàn cảnh hạn chế. Điều 10 (6) của UNCLOS thừa nhận sự tồn tại của một vùng nước như vậy, và một số các vịnh biển mà không đáp ứng được các tiêu chuẩn chính thức của một “vịnh” theo Điều 10 đã được trao cho quy chế này theo thời gian. Tuy vậy, các cường quốc trên biển, đặc biệt là Mỹ, đã nỗ lực giữ cho khái niệm này không được chấp nhận rộng rãi nhằm duy trì sự tự do hàng hải.
Khái niệm về yêu sách lịch sử được chấp nhận vào năm 1951 bởi Toà án quốc tế (ICJ) khi phán xét về yêu sách của Na uy về vùng nước nằm tiếp liền bờ biển của nước này. Những yêu sách về chủ quyền lịch sử cũng được chấp nhận trong những hoàn cảnh thích hợp tại Công ước 1958 về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp lãnh hải. Gần đây, trong vụ án Vịnh Fonseca, Toà án quốc tế đã chấp nhận vịnh Fonseca là một vịnh lịch sử và vùng nước của nó là vùng nước lịch sử.
Năm 1962, Ủy ban pháp luật quốc tế đã thực hiện một nghiên cứu với tựa đề: “Quy chế pháp lý của vùng nước lịch sử, bao gồm cả vịnh lịch sử”, trong nghiên cứu này đã có những câu trả lời cho câu hỏi những tiêu chuẩn nào sẽ được áp dụng để xác định tính hợp pháp của một yêu sách chủ quyền lịch sử.
Theo đó thì một vịnh hay một vùng nước được coi là lịch sử, căn cứ theo tập quán quốc tế và các phán quyết của toà án phải thỏa mãn ít nhất hai điều kiện sau: 1) Quốc gia ven biển thực thi chủ quyền của mình đối với vùng được yêu sách; 2) Sự liên tục của việc thực thi quyền lực đó theo thời gian; 3) Quan điểm của các quốc gia khác với yêu sách đó. Ngoài ra, một quốc gia yêu sách danh nghĩa lịch sử phải có trách nhiệm đưa ra bằng chứng đối với các vùng nước có vấn đề đang tranh cãi này [7].
Bất cứ chính quyền nào yêu sách vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” là vùng nước lịch sử thì quy chế pháp lý đối với vùng nước này như thế nào, nếu các vùng nước này được yêu sách như vùng nội thuỷ thì các chính quyền yêu sách đó phải chứng minh được là họ đã thực thi chủ quyền một cách liên tục đối với các vùng nước bao bọc trong “đường lưỡi bò” qua một thời gian tương đối giống như đã thực thi chủ quyền đối với các vùng nội thuỷ khác. Nếu các vùng nước này được yêu sách như lãnh hải thì quốc gia yêu sách phải chỉ ra được rằng họ đã thực thi chủ quyền một cách liên tục đối với các vùng nước bị bao bọc này trong một thời gian dài như họ đã thực thi chủ quyền đối với các vùng lãnh hải khác. Cũng tương tự như vậy nếu họ muốn yêu sách các vùng nước bị bao bọc như là vùng nước lịch sử.
Đối với yêu sách như các vùng nội thuỷ
Theo chế độ pháp lý của các vùng nội thuỷ, một quốc gia ven biển thực thi chủ quyền đầy đủ đối với vùng nước nằm phía bên trong đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải, tàu nước ngoài không có quyền đi qua không gây hại trong vùng nội thuỷ của quốc gia ven biển, trừ khi được sự đồng ý của quốc gia đó.
Vậy vùng nước bị bao bọc bởi “đường lưỡi bò”có thể được coi là vùng nội thuỷ không? Câu trả lời đến ngay từ một học giả Đài Loan là không [8], bởi những lý do sau đây: thứ nhất, chính quyền Cộng hoà Trung Hoa chưa bao giờ yêu sách vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” như là vùng nội thuỷ. Thứ hai, tàu nước ngoài, trong đó có cả tàu chiến vẫn thực hiện quyền đi lại trên vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” này từ khi “đường lưỡi bò” này xuất hiện trên bản đồ do Cộng Hoà Trung Hoa xuất bản năm 1948, và chính quyền Cộng Hoà Trung Hoa đã không có một hành động nào ngăn cản các tàu nước ngoài qua lại vùng này.
Đối với yêu sách như “lãnh hải”
Theo quy định tại Điều 3 Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982 (UNCLOS) thì: “Mọi quốc gia đều có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của mình; chiều rộng này không vượt quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở được vạch ra theo đúng Công ước”. Mọi quốc gia có quyền thực thi chủ quyền đối với vùng lãnh hải của mình. Tàu thuyền nước ngoài chỉ được hưởng quyền đi qua không gây hại cho trong vùng lãnh hải của các quốc gia ven biển, trừ khi có các điều khoản, điều ước chuyên môn khác. Đối với vùng trời phía trên lãnh hải, các máy bay nước ngoài được quyền bay qua không gây hại.
Vậy thì câu hỏi tiếp theo là các vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” có thể được coi là lãnh hải của Trung Quốc không? Câu trả lời của Yann Huei Song cũng là không. Máy bay nước ngoài đã bay qua vùng trời phía trên của vùng nước này từ năm 1948 khi bản đồ được xuất bản. Như đã trình bày ở trên, máy bay của nước ngoài không được phép bay qua không gây hại trên vùng trời phía trên của lãnh hải quốc gia ven biển.
Đối với yêu sách như các vùng nước quần đảo
Khái niệm về các vùng nước quần đảo là một khái niệm mới trong luật biển quốc tế, được đưa ra trong Hội nghị Liên Hợp Quốc về Luật biển lần III (UNCLOS III), theo đó, các vùng nước nằm bên trong đường cơ sở thẳng của quần đảo là vùng nước quần đảo, nó không phải là nội thuỷ, cũng không phải là lãnh hải. Một quốc gia quần đảo có quyền thực thi chủ quyền đối với vùng nước quần đảo của mình. Chủ quyền quốc gia “được mở rộng đến vùng trời phía trên của vùng nước quần đảo cũng như đến đáy của vùng nước đó và lòng đất tương ứng và đến các nguồn tài nguyên ở đó”. Tàu nước ngoài được quyền đi qua không gây hại tại vùng nước quần đảo, tàu biển và máy bay nước ngoài được quyền có đường hàng hải, đường hàng không đi qua vùng nước quần đảo.
Do chế độ pháp lý của “các vùng nước quần đảo” được phát triển trong giai đoạn hội nghị lần thứ III của UNCLOS (từ năm 1973 – 1982) và bản đồ thể hiện “đường lưỡi bò” xuất bản lần đầu năm 1948, nên khó có thể chứng minh được vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” đó có được quy chế pháp lý của các vùng nước quần đảo, Cộng Hoà Trung Hoa đã không thực thi chủ quyền và quyền tài phán của mình đối toàn bộ các vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” này, tàu và máy bay nước ngoài vẫn tiếp tục được hưởng quyền tự do hàng hải và hàng không trong vùng nước nằm trong đường này, thay cho quyền đi qua không gây hại và quyền được qua lại các tuyến hàng hải và hàng không đã được ấn định của vùng nước quần đảo. Vì thế, có thể kết luận là toàn bộ các vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” không thể được xem là các vùng nước quần đảo của Cộng hoà Trung Hoa.
- Yêu sách của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa
Với công hàm ngày 7/5/2009 có kèm bản đồ đường chữ U, có vẻ như Trung Quốc đòi hỏi cộng đồng quốc tế phải thừa nhận “tính chất lịch sử của đường lưỡi bò, coi Biển Đông như một vịnh lịch sử”. Đường này sẽ được ngộ nhận là đường biên giới quốc gia trên biển của Trung Quốc. Họ cũng rất khéo kết hợp con đường này với các khái niệm đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của luật biển quốc tế hiện đại bằng tuyên bố dưới dạng Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi với các vùng nước phụ cận của quần đảo Nam Sa (Trường Sa theo tên Việt Nam). Như vậy toàn bộ Biển Đông sẽ trở thành ao hồ của Trung Quốc.
Theo các tiêu chí để thỏa mãn một vùng nước được coi là vùng nước lịch sử, thì Trung Quốc cũng phải chứng minh được họ đã thực thi chủ quyền trên toàn bộ vùng nước trong đường lưỡi bò này một cách thật sự và liên tục trong một thời gian dài. Điều này thật không đơn giản, bởi vì: Các văn kiện chính thức của nhà nước phong kiến Trung Quốc, như Đại Nguyên nhất thống chí (1294),Đại Minh Nhất thống chí (1461), Đại Thanh Nhất thống chí (1842), trước năm 1909 đều khẳng định “cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc là Nhai huyện, đảo Hải Nam”. Các bản đồ lãnh thổ Trung Quốc của người nước ngoài cùng thời cũng vẽ và giải thích phù hợp với cách hiểu này của người Trung Quốc. Bản đồ Trung Quốc thế kỷ XVII của Peter de Goyer và Jacob de Keyzer thuộc công ty Đông Ấn – Hà Lan cũng có lời giải thích rất rõ: “nơi xa nhất của Trung Quốc bắt đầu từ phía Nam đảo Hải Nam ở 18 độ vĩ Bắc, rồi từ đó ngược lên phía Bắc đến vĩ độ 42 độ [9]. Trung Quốc chỉ thực sự bước chân lên quần đảo Hoàng Sa năm 1909 khi quần đảo này đã thuộc Việt Nam, không còn là đất vô chủ. Về Trường Sa, cho tới tận năm 1932, công hàm ngày 29/9/1932 của Phái đoàn ngoại giao Trung Hoa Dân quốc tại Paris vẫn còn khẳng định các nhóm đảo “Amphitrite” (Lưỡi Liềm) và “Croissant” (An Vĩnh) của quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) “tạo thành phần lãnh thổ Trung Quốc nằm tận cùng ở phía Nam”.
Trung Quốc đã không đưa ra được các bằng chứng nào có sức thuyết phục về việc họ đã thực thi chủ quyền trên toàn bộ vùng biển rộng lớn này một cách liên tục, hoà bình từ thời xa xưa. Các sách Hán văn cổ đều ghi nhận các hoạt động của dân đánh cá và dân buôn ả Rập, ấn Độ, Malay, Việt, và vùng Vịnh trong vùng biển này, không có một bằng chứng nào cho thấy Biển Đông hoàn toàn là “ao hồ Trung Quốc”. Các chính quyền phong kiến Trung Quốc cũng không thiết lập hoặc duy trì có lợi cho họ một sự độc tôn nào trong vùng biển này, khả dĩ có thể loại bỏ hoạt động khai thác của các đội Hoàng Sa và Bắc Hải của triều Nguyễn. Ngược lại còn có những hành động thừa nhận tính hợp pháp của các hoạt động đó như trường hợp năm 1774: quan huyện Văn Xương giúp đội viên đội Hoàng Sa khi đi làm nhiệm vụ bị bão dạt vào đất Trung Quốc.
Đường lưỡi bò không phải là con đường có tính ổn định và xác định. Từ 11 đoạn, năm 1953, Trung Quốc đã phải bỏ đi hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ vì quá vô lý. Tính chất không liên tục của con đường này được các tác giả Trung Quốc giải thích là để cho “những điều chỉnh cần thiết trong tương lai”. Đặc tính quan trọng nhất của một đường biên giới quốc tế là sự ổn định và dứt khoát [10]. “Đường lưỡi bò” không thể hiện được đặc tính đó, thêm nữa, vị trí của nó lại không được xác định tọa độ rõ ràng, vì thế khó mà biểu thị là một đường biên giới được.
Vấn đề thứ hai theo Yann Huei Song thì mặc dù “đường lưỡi bò” đã xuất hiện trên các bản đồ xuất bản ở Trung Hoa lục địa từ năm 1949, nhưng chưa bao giờ Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa yêu sách chính thức các vùng nước nằm trong đường này như các vùng nước lịch sử. Đại diện của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa đã không tuyên bố như vậy trong Hội nghị Công ước Luật biển lần III [11]. Theo luật pháp quốc tế, các hành vi mà quốc gia thể hiện phải mang tính công khai ý chí thực thi chủ quyền trên lãnh thổ đó. Những hành vi bí mật không thể tạo nên cơ sở cho quyền lịch sử, ít nhất các quốc gia khác phải có cơ hội được biết những gì đang diễn ra.
Như vậy, kể cả Cộng Hoà Trung Hoa lẫn Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa đều chưa bao giờ công bố chính thức yêu sách về vùng biển bên trong “đường lưỡi bò” đó.
Đặc biệt, Điều 1 Tuyên bố năm 1958 về lãnh hải của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã nhấn mạnh rằng:
“Chiều rộng lãnh hải nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa là 12 hải lý. Điều khoản này áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, bao gồm lục địa Trung Quốc và các đảo ven bờ của lục địa cũng như các đảo Đài Loan và xung quanh đó, quần đảo Penghu (Bành Hồ) và tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc bị phân cách với đất liền và các đảo ven bờ biển của nó bởi biển cả” [12].
Như vậy, Tuyên bố 1958 của Trung Quốc xác định rõ ràng các đảo bị tách biệt với lục địa bởi biển cả, chứ không phải là vùng nước lịch sử. Chẳng lẽ lại tồn tại vùng biển cả nằm trong nội thuỷ của Trung Quốc? Không thể có điều vô lý đó. Do vậy, Tuyên bố và các đạo luật của các nhà chức trách Trung Quốc, đặc biệt Tuyên bố năm 1958 của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa là không phù hợp với yêu sách lịch sử được phân định bởi “đường lưỡi bò” [13].
Tuyên bố về đường cơ sở của Trung Quốc ngày 15/5/1996 càng làm cho sự mập mờ này của họ tăng lên bởi họ yêu sách một đường cơ sở nối cả Hoàng Sa nhưng lại không đề cập gì đến Trường Sa.
Hơn nữa, tại hội nghị San Francisco tháng 9 năm 1951, các quốc gia tham gia đã khước từ đề nghị trao trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa [14], và thực tế tranh chấp về chủ quyền trên Hoàng Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc hay tranh chấp chủ quyền đối với toàn bộ hay một phần quần đảo Trường Sa giữa Việt Nam, Malaysia, Philippines và Trung Quốc cho thấy không thể nói là “đường lưỡi bò” được các quốc gia khác công nhận. Như vậy, có thể nói là yêu sách này chưa bao giờ có được sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế.
KẾT LUẬN
Yêu sách về “đường lưỡi bò” bắt đầu từ một bản đồ của Cộng Hoà Trung Hoa xuất bản lần đầu tiên vào năm 1948. Sau này, cả Đài Loan và Bắc Kinh đều đã dựa vào bản đồ đó để biện minh cho yêu sách về vùng biển này trên biển Đông.
Bản chất thực sự của yêu sách này vẫn đang bị bao phủ bởi sự bí ẩn, cả Trung Quốc và Đài Loan đều mập mờ với các tuyên bố không rõ ràng. Tuy nhiên, những hoạt động của Trung Quốc cho thấy Trung Quốc thực tế đang yêu sách tất cả các vùng nước và tài nguyên nằm trong vùng biển này.
Những phân tích về yêu sách này theo luật pháp quốc tế cho thấy vì cơ sở pháp lý thiếu thuyết phục cho nên “Cộng hoà nhân dân Trung Hoa không đưa ra những yêu sách lịch sử của mình với các tọa độ rõ ràng, và giữ im lặng về bản chất của đường lưỡi bò và chế độ pháp lý của vùng biển được bao bọc bởi đường đó” [15]. Ngay cả các học giả Trung Quốc cũng không nhất trí được với nhau về chế độ pháp lý của vùng biển bị bao bọc bởi đường lưỡi bò này [16]
Các học giả Trung Quốc đã nỗ lực tìm mọi luận cứ biện minh cho yêu sách này của họ, còn các học giả nước ngoài thì đưa lại những ý kiến khách quan hơn. Nhóm Mark J Valencia cho rằng: “ một yêu sách của Trung Quốc coi biển Nam Trung Hoa là một vùng nước lịch sử không thể đứng vững được dưới góc độ pháp luật quốc tế hiện đại” [17].
Xa hơn nữa, Hamzah cho rằng: “ Một số nước yêu sách toàn bộ biển Nam Trung Hoa như là của riêng họ dựa trên cơ sở lịch sử. Các yêu sách như vậy chẳng có gì là lạ và chẳng đáng đề cập đến… Yêu sách đơn phương đối với toàn bộ biển Nam Trung Hoa của một quốc gia sẽ chẳng có gì chú ý đến.. Dù suy diễn như thế nào chăng nữa cũng không thể coi biển Nam Trung Hoa như là vùng nội thuỷ hoặc hồ lịch sử để làm cơ sở khẳng định yêu sách. Vì vậy, khu vực yêu sách này là phù phiếm, không có căn cứ và không hợp lý…Tôi cố gắng thuyết phục tất cả các quốc gia bác bỏ các yêu sách đối với toàn bộ biển Nam Trung Hoa (hay đòi hỏi một khu vực có liên quan) vì không có cơ sở nào trong luật cũng như trong lịch sử” [18].
Dựa trên pháp luật quốc tế hiện đại, chúng ta có thể kết luận về yêu sách về “đường lưỡi bò”này của Trung Quốc “không có cơ sở yêu sách nào trong luật quốc tế cho yêu sách lịch sử đó [19] ”, “yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền lịch sử và quyền đối với hầu hết biển Đông và/hoặc đối với đáy biển và lòng đất của nó là trái với sự phát triển toàn diện của luật biển quốc tế hiện đại và không thể coi là một vấn đề pháp luật nghiêm chỉnh” [20].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Xem Li Jin Ming và Li De Xia, “The Dotted Line on the Chinese Map
of the South China Sea: A Note”, Ocean Development & International Law, 34:287–295, 2003, p 289; Yann Huei Song, “China’s “historic waters”in the south china sea:an analysis from Taiwan”, American Asian Review Vol. 12, N.. 4,
Winter, 1994 (pp. 83-101)
[2] Chi Kin Lo, China’s policy towards territorial disputes, p 43.
[3] Yann Huei Song, đã dẫn, xem chú thích 1
[4] Yann Huei Song, đã dẫn
[5] Xem Li Jin Ming và Li De Xia, đã dẫn
[6] Xem Pan Shiying, “The petropolotics of the Nansha islands – China’s indisputable legal case” (Chính trị dầu mỏ của các đảo Nam Sa – lập luận pháp lý không thể tranh cãi của Trung Quốc), Economic Information & Agency, July 1996)
[7] Mark Valencia, Sharing the resources of the South China sea, Martinus Nijhoff publisher, 1997, p 26
[8] Yann Huei Song, đã dẫn, xem chú thích 1
[9] Peter de Goyer and Jacob de Keyzer,An Embassy from the East – India company united Provinces to the Grand Tartar Cham Emperor of China, thư viện Menzies, Australia, v. Ige. Rare b DS 708.N64
[9] G.M.C Valero, “Spratly archipelago: is the question of sovereignty still relevant?”, IILS, University of the Philippines, Law Center, Diliman, Quezon city, 1993.
[10] Tuyển tập các phán quyết, sắc lệnh của Toà án công lý quốc tế (ICJ), 1962, vụ đền Preáh Viheár,Tài liệu dịch của Ban Biên giới chính phủ, tr. 34
[11] Yann huei Song, đã dẫn
[12] Daniel J. Dzurek, The Spratly Islands Dispute:Who’s On First?. International Boundaries Research Unit, Volume 2 Number 1, p. 14
[13] Daniel J. Dzurek, đã dẫn, p. 15
[14] Monique Chemillier- Gendreau, Sovereignty over Paracel and Spratly Islands. Kluwer Law International, 2000, 208, p. 41
[15] Yann Huei Song, đã dẫn
[16] Daniel Dzurek, đã dẫn, p. 13
[17] Mark J. Valencia, John M. Van Dyke, and Noel A. Ludwig, Sharing the resouces of the South China Sea. University of Hawaii’s Press, 1997, 278, p. 28
[18] Yann Huei Song, đã dẫn
[19] Yann Huei Song, đã dẫn
[20] Brice M. Claget, Những yêu sách đối kháng của Việt Nam và Trung Quốc ở khu vực bãi ngầm Tư Chínhh và Thanh Long trong Biển Đông. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, 1996, tr. 99
Thủ tướng: “Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam”
Theo báo Điện tử: Dân trí số ra ngày thứ Sáu, 25/11/2011
Trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, Việt Nam có đủ căn cứ pháp lý khẳng định quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc chủ quyền của Việt Nam và thực tế chúng ta đã làm chủ từ cách đây vài thế kỷ.
Đòi chủ quyền Hoàng Sa bằng hòa bình
Mở đầu phiên chất vấn, đại biểu Lê Bộ Lĩnh (An Giang) bắt ngay vào vấn đề đang được quan tâm là các hoạt động đối ngoại. “Xin Thủ tướng cho biết những giải pháp cụ thể của Chính phủ để thực hiện để bảo vệ chủ quyền biển đảo”, ông Lĩnh chất vấn.
Cũng liên quan đến vấn đề chủ quyền, đại biểu Đặng Ngọc Tùng đề nghị Thủ tướng nêu những giải pháp để ngư dân yên tâm bám biển, đẩy mạnh đánh bắt cá ở Biển Đông, nhất ở 2 ngư trường truyền thống Trường Sa, Hoàng Sa.
Đại biểu Đặng Ngọc Tùng đề cập vấn đề chủ quyền biển đảo
Đáp lại câu hỏi của đại biểu, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết, trên cơ sở chủ trương đối ngoại của ta, trên cơ sở luật pháp của quốc tế, căn cứ thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản ứng xử trên biển Đông giữa ta và Trung Quốc, chúng ta phải giải quyết và khẳng định chủ quyền đối với 4 vấn đề.
Trước hết là đàm phán phân định ranh giới ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, còn trong vịnh Bắc Bộ ta và Trung Quốc đã hoàn thành việc phân định.
Theo Thủ tướng, thềm lục địa của ta có chồng lấn với đảo Hải Nam – Trung Quốc và hai bên đã đàm phán từ 2006, nhưng đến năm 2009 tạm dừng do quan điểm còn khác nhau. Đến đầu năm 2010 hai bên thỏa thuận là nên tiến hành đàm phán những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển sau nhiều lần đàm phán.
Ngoài cửa vịnh Bắc Bộ là vấn đề giữa hai nước nên hai bên sẽ đàm phán để có giải pháp hợp lý. Chúng ta đang xúc tiến để phân định. Khi chưa phân định, với chừng mực khác nhau, hai bên đã tự hình thành vùng quản lý của mình trên cơ sở đường Trung tuyến, từ đó cùng đối thoại để đảm bảo an ninh, an toàn trong khai thác nghề cá.
Vấn đề thứ hai, chúng ta phải giải quyết và khẳng định chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa. “Việt Nam có đủ căn cứ, pháp lý khẳng định quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Thực tế chúng ta đã làm chủ, ít nhất là từ thế kỷ XVII. Chúng ta làm chủ khi 2 quần đảo này chưa thuộc bất kỳ một quốc gia nào và chúng ta đã làm chủ trên thực tế và liên tục hòa bình.”, Thủ tướng nhấn mạnh.
Theo đó, năm 1956, Trung Quốc chiếm các đảo phía đông quần đảo Hoàng Sa. Đến năm 1974 cũng Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý hiện tại của chính quyền Sài Gòn, tức là chính quyền Việt Nam cộng hòa.
Chính quyền Sài Gòn, chính quyền Việt Nam cộng hòa đã lên tiếng phản đối, lên án việc làm này và đề nghị Liên hợp quốc can thiệp. Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam của chúng ta lúc đó cũng đã ra tuyên bố phản đối hành vi chiếm đóng này. “Lập trường nhất quán, quần đảo Hoàng Sa là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Nhưng chúng ta đàm phán bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với hiến chương liên hợp quốc và luật biển.”, Thủ tướng bày tỏ.
Thứ ba, với quần đảo Trường Sa, sau giải phóng miền Nam (1975), chúng ta tiếp quản 5 hòn đảo của quần đảo Trường Sa (đảo Trường Sa, đảo Song Tử Tây, đảo Sinh Tồn, đảo Nam Yết và đảo Sơn Ca). Sau đó với chủ quyền của mình, chúng ta tiếp tục mở rộng để tiếp quản 21 đảo với 33 điểm đóng quân. Ngoài ra chúng ta còn xây dựng thêm, 15 nhà giàn ở khu vực bãi Tư Chính để khẳng định chủ quyền ở vùng biển này. Hiện ở quần đảo Trường Sa, Trung Quốc chiếm 7 bãi đá ngầm, Đài Loan chiếm 1 đảo, Philippin 9 đảo, Malaysia chiếm 5 đảo…
Trên quần đảo Trường Sa, Việt Nam đang nắm giữ số đảo nhiều nhất và cũng là quốc gia duy nhất có cư dân đang làm ăn sinh sống trên các đảo chúng ta năm giữ, với 21 hộ, 80 khẩu, trong đó 6 khẩu sinh ra và lớn lên ở đảo này.
Chủ trương của chúng ta là nghiêm túc thực hiện Công ước luật biển, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC). Các bên không làm phức tạp thêm tình hình, gây ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định của khu vực…
Chúng ta sẽ tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật ở những nơi chúng ta đang đóng giữ. Tiếp tục có cơ chế chính sách hỗ trợ đồng bào ta khai thác thủy hải sản ở khu vực này.
Thực hiện đảm bảo tự do hàng hải ở biển Đông, bởi đây là mong muốn của tất cả các bên liên quan, do biển Đông là tuyến đường chiếm dung lượng vận tải lớn (50 – 60% tổng lượng hàng hóa vận tải từ đông sang tây).
Cuối cùng, theo Thủ tướng, tới đây phải giải quyết và khẳng định chủ quyền của chúng ta trong phạm vi 200 hải lý thuộc thềm lục địa và đặc quyền kinh tế theo Công ước luật biển 1982.
Biểu dương thích đáng người biểu thị lòng yêu nước
Đi liền vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển Đông, đại biểu Lê Bộ Lĩnh cũng đặt câu hỏi về quan điểm của Thủ tướng với việc người dân tụ tập, biểu tình biểu thị lòng yêu nước khi có hành động xâm phạm chủ quyền biển đảo từ bên ngoài?
Đại biểu Đỗ Văn Vẻ (Thái Bình) đề nghị Thủ tướng cho biết những căn cứ để Chính phủ đề nghị Quốc hội xếp lịch xây dựng luật Biểu tình trong chương trình xây dựng luật khóa này?
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết, trước hết, Chính phủ căn cứ vào điều 69 Hiến pháp, quy định công dân được biểu tình theo pháp luật. “Hiến pháp đã quy định biểu tình như một quyền cơ bản của công dân nhưng lại chưa có luật điều chỉnh cụ thể nên chúng ta cần bắt tay xây dựng luật” – ông Dũng giải thích.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng:
Xây dựng luật biểu tình để đảm bảo quyền lợi của người dân
(Ảnh: Việt Hưng)
Thủ tướng cho rằng, thực tế thời gian qua cũng nhiều cuộc tụ tập đông người, biểu tình của đồng bảo để bày tỏ ý kiến, nguyện vọng với chính quyền. Việc chưa có luật quản lý, điều chỉnh gây khó cho người dân khi thực hiện quyền hiến định, cũng khó cho việc quản lý của chính quyền. Vì vậy, đã có những lúng túng nảy sinh, những biểu hiện mất an ninh trật tự, lợi dụng để kích động xuyên tạc gây phương hại cho xã hội.
Trước tình trạng đó, Chính phủ đã có văn bản xin ý kiến Quốc hội khóa XII và nhận được phản hồi của cơ quan lập pháp yêu cầu ban hành Nghị định điều chỉnh vấn đề này. Tuy nhiên, Nghị định của Chính phủ có hiệu lực pháp luật không cao, chưa đáp ứng việc thực quyền hiến pháp quy định cũng như quản lý trong thực tế. Vì vậy, Chính phủ kiến nghị Quốc hội khóa này cần xây dựng luật cụ thể cho phù hợp với Hiến pháp, với đặc điểm lịch sử văn hóa, điều kiện cụ thể của Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Thủ tướng nhấn mạnh, luật Biểu tình xây dựng để đảm bảo quyền lợi của người dân, để ngăn chặn việc làm, hành vi xâm hại an ninh trật tự, lợi ích xã hội. Với tinh thần đó, người đứng đầu Chính phủ một lần nữa đề nghị Quốc hội xem xét quyết định việc làm luật theo đề xuất.
Về quan điểm, chủ trương ứng xử với những người tụ tập biểu thị lòng yêu nước, Thủ tướng khẳng định luôn luôn trân trọng, biểu dương và có khen thưởng xứng đáng với tất cả những hoạt động, việc làm của mọi người dân thực sự vì mục tiêu bảo vệ chủ quyền quốc gia.
“Những hoạt động vì mục đích đó đều được hoan nghênh, biểu dương thích đáng. Nhưng đồng thời, Chính phủ cũng sẽ buộc xử lý theo pháp luật những hoạt động, hành vi với động cơ lợi dụng, núp dưới danh nghĩa lòng yêu nước, bảo vệ chủ quyền để gây phương hại cho đất nước, xã hội” – Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng quả quyết, với chủ trương nhất quán như vậy, Chính phủ tin đồng bào sẽ ủng hộ.
Với những câu hỏi về chủ trương quản lý khai thác, chế biến, xuất khẩu khoáng sản mà đại biểu Lê Hồng Lĩnh (Hậu Giang), Trần Ngọc Quỳnh (Hưng Yên) đề cập, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định, Chính phủ đã tổ chức họp, thảo luận về vấn đề này và thống nhất nhiều giải pháp lớn.
Trước hết, Chính phủ đã yêu cầu chính quyền các địa phương, cơ quan chức năng chỉ đạo, ngăn chặn bằng được việc khai thác khoáng sản trái phép. “Không ai có thể nói việc khai thác khoáng sản trên địa bàn của chúng tôi mà chúng tôi không biết” – Thủ tướng nhấn mạnh việc chặn cho được hiện tượng khai thác tự do, sai phép, trái phép.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định, Chính phủ cũng đã chỉ đạo tạm dừng cấp phép khai thác khoáng sản mới. Việc tạm dừng đi liền với hoạt động rà soát ngay các các dự án đang khai thác. Theo đó, những dự án khai thác gây ô nhiễm môi trường, dự án “vượt” phép, dự án gây hư hỏng đường sá, mất an ninh trật tự sẽ phải dừng ngay. Sau rà soát sẽ bổ sung quy hoạch để đi vào khai thác sâu, chế biến hiệu quả khoáng sản.
Về chủ trương dừng xuất khẩu khoáng sản, dẫn chứng cụ thể, Thủ tướng cho biết Bộ Công thương vừa qua đã cho dừng xuất khẩu quặng sắt ở mỏ Quý Sa – Lào Cai để tiến hành khai thác, chế biến sâu, hiệu quả hơn.
Về vấn đề cấp phép mới sau khi rà soát, quy hoạch lại, Thủ tướng quán triệt, chỉ những dự án khả thi, được phê duyệt, thẩm định hiệu quả về kinh tế, môi trường, an ninh trật tự mới được cấp phép khai thác khoáng sản.
Ngoài ra, Chính phủ cũng đã yêu cầu Bộ Tài chính tăng thêm ngân sách cho việc điều tra khảo sát, thăm dò trữ lượng các loại khoáng sản tại Việt Nam. Nguồn tài nguyên đất nước, Thủ tướng khẳng định, vẫn còn rất phong phú, đến nay mới chỉ thăm dò được hơn 50% lượng khoáng sản trên đất liền, 1% nguồn khoáng sản trên biển. Việc thăm dò nhằm mục đích đánh giá trữ lượng, tiềm năng và xây dựng chiến lược khai thác cho tương lai.
Những câu hỏi, nội dung chất vấn còn lại không đủ thời gian trả lời trực tiếp trên hội trường, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hứa sẽ tiếp tục cập nhật, trả lời trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ. Cả hội trường đồng loạt vỗ tay sau phần trả lời chất vấn của Thủ tướng.
Cấn Cường – Phương Thảo
Trường Sa – Tổ quốc thiêng liêng nơi đầu sóng
Theo báo tin tức – Thông tấn xã Việt Nam số báo ra ngày 20,21,22,23 tháng 12 năm 2011 của tác giả, nhà báo: Mai Thắng.
1.Minh chứng lịch sử
– Dấu chân người Việt
Cách đây hơn 6 thế kỷ, trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đã có ngư dân sinh sống ở đây. Trong tài liệu “Thiên Nam Tứ Chí lộ Đồ thư” của Đỗ Bá viết vào đầu thế kỷ XVII đã xác nhận rằng: “Chúa Nguyễn đã lập nên đội Hoàng Sa để khai thác quần đảo”. Tuyển tập nêu rõ: “Ngoài khơi Biển Đông nước Nam có một quần đảo cồn cát dài khoảng 400 lý, rộng 20 lý nhô lên từ đáy biển, gọi là Bãi cát vàng. Mỗi năm vào cuối mùa đông, Chúa Nguyễn đều cho một hạm đội gồm 18 thuyền viên ra đảo để thu thập những hóa vật, đem về một số lớn vàng bạc, tiền tệ, súng đạn. Đây là di chứng của ngư dân đi thuyền bị đắm trôi dạt vào đảo”.
Từ sự minh chứng lịch sử trên, cho thấy Việt Nam đã khám phá và biết đảo Trường Sa ít nhất từ thế kỷ XV và sinh sống tại đây từ nhiều thế kỷ. Đến thế kỷ XVII, chính quyền nhà Nguyễn đã tổ chức khai thác đảo có hệ thống. Đây là dấu ấn kiên định mang ý nghĩa lịch sử, khẳng định chủ quyền Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam.
Bia ghi nhớ chủ quyền Trường Sa. ảnh: MT |
Dấu ấn sớm nhất được ghi lại sự có mặt của ngư dân Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là từ năm thứ ba trước Công nguyên. Đó là một số đông đảo người dân đánh cá, đa số là cư dân cổ người Việt. Họ đến đây để đánh cá mang về đất liền bán hoặc trao đổi lấy lương thực, thực phẩm. Thời gian sinh sống ở đảo từ 5 tháng đến 3 năm/đợt. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, không chỉ có ngư dân Việt Nam mà có cả thủy thủ đến từ một số nước lớn ở châu Âu như Richard Sparetly; Wiliam Sparetly cũng đến quần đảo Trường Sa, nhưng đã tự rút lui sau khi có sự phản kháng từ phía chính quyền nhà Nguyễn. Đó là vào năm 1883.
Tất cả các bản đồ địa lý của Việt Nam đều ghi nhận “Bãi cát vàng” (quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) là lãnh thổ của Việt Nam từ đầu thế kỷ XVII. Trong cuốn “Phủ biên tạp lục” của Lê Quí Đôn, Hoàng Sa và Trường Sa được xác định rõ thuộc về địa danh tỉnh Quảng Ngãi. Đó là nơi ngư dân Việt Nam đến khai thác các sản phẩm biển và các đồ vật còn sót lại từ các vụ đắm tàu. Cũng ở thế kỷ XVII, dưới triều nhà Lê, quần đảo Trường Sa là nơi hội tụ giao thương kinh tế. Các hoạt động giao thương kinh tế ấy được tiếp nối khi nhà Nguyễn lên cầm quyền.
Từ sự minh chứng chủ quyền lịch sử, ngày 7/7/1951, thay mặt nhân dân Việt nam, Chủ tịch phái đoàn Chính phủ Bảo Đại Trần Văn Hữu đã dự Hội nghị San Fracisco về “Hiệp ước hòa bình” với Nhật Bản. Tại đây ông đã tuyên bố rằng quần đảo Hoàng sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Nhân dân Việt Nam có quyền bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ của mình. Hội nghị ấy có 51 nước tham gia, song không một thành viên nước nào phản đối hoặc bảo lưu ý kiến. Họ thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam từ lâu đời trong lịch sử.
Trải qua nhiều thập kỷ khai thác và giữ gìn, Việt Nam đã tiến hành hàng trăm cuộc khảo sát địa lý, tài nguyên, thế trận an ninh quốc phòng, kinh tế trên quần đảo. Kết quả những lần khảo sát ấy được ghi chép rõ ràng trong các tài liệu cũng như văn học và lịch sử Việt Nam, được xuất bản từ thế kỷ XVII.
– Công cuộc bảo vệ chủ quyền
Bên cột mốc chủ quyền. ảnh tư liệu Hải quân |
Để có một Trường Sa vững vàng, hiên ngang như ngày hôm nay, ở “bãi cát vàng” nhỏ nhoi đầy bão tố ấy, quân và dân ta luôn kiên cường bám biển, giữ đảo, chưa một phút nghỉ ngơi. Biết bao trái tim đã cống hiến trọn đời mình cho đảo nhỏ tiền tiêu này, bao chiến sĩ đã đổ máu xương ở nơi đây mà không hề do dự, cốt là để bảo vệ Trường Sa- Lãnh thổ Việt nam đã có từ thời hồng hoang của lịch sử.
Vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước, nước ngoài cho quân đóng chiếm một số bãi thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam như Chữ Thập, Châu Viên, Gạc ma, Huy gơ. Trước tình thế ấy, những người lính hải quân của đoàn vận tải M25 đã hạ quyết tâm canh giữ với phương châm “một tấc không đi, một ly không rời”. Trên tinh thần chính đáng: Bảo vệ cột mốc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, những người lính thủy thuyền trưởng Vũ Phi Trừ tàu HQ-604, thuyền trưởng Vũ Huy Lễ tàu HQ-505, cùng cán bộ chiến sĩ của 2 phân đội công binh e83, cán bộ chiến sĩ của Đoàn M46, cán bộ chiến sĩ của Đoàn Đo đạc biển và vẽ bản đồ đã mưu trí sáng tạo, chiến đấu anh dũng, làm chủ vùng biển, đảo. Lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc được cắm trên đảo. Lá cờ kiêu hãnh ấy đã nhuộm máu của người lính Hải quân Việt Nam.
Chiến sĩ Nguyễn Văn Lanh với tinh thần “một tấc không đi, một ly không rời” đã chiến đấu ngoan cường, bằng mọi giá phải cắm được cờ trên đảo. Thiếu úy Trần Văn Phương trước khi hi sinh hô vang: “Thà hy sinh chứ nhất định không chịu mất đảo. Hãy để máu của mình tô thắm cờ truyền thống của quân chủng Hải quân”.
2. Giải phóng Trường Sa
Đã 36 năm trôi qua kể từ ngày quần đảo Trường Sa được hoàn toàn giải phóng, nhưng ký ức về trận đánh thì nguyên vẹn như mới hôm qua. Thắng lợi của mũi tiến công thần tốc giải phóng Trường Sa không chỉ thể hiện tinh thần chiến đấu kiên cường anh dũng, mà còn là khát vọng hòa bình của bộ đội hải quân Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển.
-Cuộc hành quân khẩn cấp
Đêm ngày 10/4/1975, từ bến cảng Sơn Trà Đà Nẵng, “đoàn tàu đánh cá” gồm 3 chiếc nhổ neo ra khơi. Tàu không lớn, mang cờ hiệu, trên mặt boong chỉ lác đác vài người đi lại như những thủy thủ đánh cá. Đó là các tàu 673, 674, 675 của Đoàn vận tải 125 Hải quân, những con tàu “không số” đã nổi tiếng với “Đường Hồ Chí Minh trên biển”. Trong bụng những con tàu đó chứa gần 300 chiến sĩ Đội 1, Đoàn 126 đặc công Hải quân cùng các lực lượng Quân khu 5 và hàng tấn đạn dược.
Trên boong tàu 675, lúc ấy Trung tá Mai Năng là Đoàn trưởng Đoàn M26 – người được giao nhiệm vụ chỉ huy giải phóng quần đảo Trường Sa trầm ngâm suy nghĩ tới nhiệm vụ đồng chí Hoàng Hữu Thái, Phó tư lệnh Hải quân giao cho đơn vị trước ngày đi : “Chúng ta phải bằng bất cứ giá nào, tranh thủ thời cơ có lợi giải phóng quần đảo Trường Sa”. Đồng chí Phó tư lệnh nhấn mạnh: Trận này ta không thể đánh theo cách của đặc công nước, phải đánh “trinh sát vũ trang”, có chỗ phải dùng hỏa lực, khi giải phóng rồi phải tổ chức lực lượng phòng thủ đảo. Rồi ông nghĩ đến những khó khăn sắp phải đối mặt, tuy là lực lượng đặc công nước, nhưng anh em hầu hết là lính mới, chưa từng trải qua chiến đấu.
Mũi tiến công giải phóng đảo Trường Sa của bộ đội hải quân. Ảnh: tư liệu |
Đội hình tàu 673, 674, 675 vượt sóng xa khơi trong bạt ngàn giông tố. Những đợt sóng lừng vô tận, liên tiếp như muốn vùi dập những con tàu nhỏ bé xuống biển sâu, hất lên cao, rồi lại vùi xuống. Hầu hết anh em đều bị say sóng. Để bảo đảm bí mật, cán bộ chiến sĩ trên tàu 675 lúc đó phải ẩn giấu trong khoang kín, vừa bị say sóng, vừa thiếu không khí, nên mọi người ai cũng mệt nhoài.
Sau 2 ngày hải trình khẩn cấp, ngày 12/4/1975, tàu 675 đến vùng biển đảo Song Tử Tây. Khi khoảng cách rút gần còn 40 hải lý, Trung tá Mai Năng mở tấm hải đồ Trường Sa, trỏ tay vào một điểm, dõng dạc: “Đây là đảo Song Tử Tây, chúng ta hiện đang ở tọa độ này … Tàu sẽ vào cách đảo 4 hải lý. Nếu điều kiện cho phép cứ vào sát nữa, vòng quanh đảo tìm vị trí đổ bộ”. Mệnh lệnh đanh thép từ người chỉ huy dày dạn trận mạc như tiếp thêm sức mạnh chiến đấu cho từng chiến sĩ. Hướng về phía Đội trưởng đội 1 Nguyễn Ngọc Quế – người được giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy bộ đội giải phóng đảo Song Tử Tây, Trung tá Năng nói: “Đồng chí cứ theo phương án đó mà thực hiện”.
Sau khi cho tàu trinh sát vòng ngoài quanh đảo, xác định rõ vị trí tiến công, những yếu tố bí mật bất ngờ, những khó khăn thuận lợi, 7 giờ sáng ngày 13/4/1975, Nguyễn Ngọc Quế báo cáo, xin thông qua phương án tác chiến. Sau khi cấp trên đồng ý, Quế chỉ huy đưa tàu vào cách đảo 3 hải lý, quan sát, lượn đủ một vòng tròn quanh đảo, vẽ cảnh đồ, tìm điểm đổ bộ. Nguyễn Ngọc Quế quyết định: Hướng đổ bộ lên đảo là hướng tây nam nơi có bãi cát phẳng và đá san hô. Lưu ý, ngoài khơi cách đảo 20 hải lý về phía tây có tàu tuần dương hạm của quân đội Sài Gòn HQ-16, khu trục hạm HQ-13, HQ-14, tàu đổ bộ LST… đang đậu quanh các đảo.
– Chiến công đầu tiên
1 giờ sáng ngày 14/4/1975, lực lượng ta đã đi vào khu vực cách Song Tử Tây 3 hải lý. Tất cả đã sẵn sàng. Anh em tập trung lên hết mặt boong. Một khí thế hừng hực, khẩn trương quyết chiến, mong bước vào trận đánh, quyết tâm giành thắng lợi, giải phóng đảo, thể hiện trên từng gương mặt chiến sĩ . Ba mũi tiến công tiếp cận đảo do Nguyễn Ngọc Quế, Đào Mạnh Hồng và Hoàng Văn Trịnh chỉ huy. Các ông đều là các chiến sĩ đặc công nước nổi tiếng với những trận đánh tàu, đánh cầu năm xưa. Tất cả đều hướng về phía đảo. Nhìn từ phía biển, đảo Song Tử Tây là đảo san hô khá lớn “bập bềnh” trong sóng lớn. Trên đảo phát ra vài quầng sáng yếu ớt của mấy ngọn đèn bảo vệ trên từ các lô cốt. “Cho thả xuồng”- mệnh lệnh chiến đấu vang lên. Tàu 673 quay mũi về hướng bắc để giữ bí mật, chọn chiều gió, hướng sóng thuận lợi cho đổ bộ. Tàu 674, 675 ở phía tây và phía bắc đảo tiếp ứng cho quân đổ bộ, sẵn sàng đánh chặn tàu địch từ phía ngoài.
Tàu 673, 674, 675 ra giải phóng Trường Sa năm 1975. Ảnh: Tư liệu |
Tiếng kêu rin rít của những ròng rọc phát ra khi hạ xuồng đổ bộ, làm nóng thêm khí thế chiến đấu đang hừng hực sục sôi. Lúc này, thủy triều đang lên, xuồng tiếp cận đảo có phần thuận lợi, nhưng cũng phải mất vài giờ vật lộn với sóng dữ , nước xoáy, ta mới tiếp cận được đảo. 38 cán bộ, chiến sĩ phân đội 1 bí mật đổ bộ, bí mật bò sát mép đảo, tiếp cận các mục tiêu. Đại đội trưởng Quế hạ lệnh nổ súng DKZ bắn thẳng vào lô cốt địch và phát lệnh hiệp đồng chiến đấu. Những tiếng hô “xung phong” vang dậy khắp đảo. Hỏa lực của ta tới tấp nã vào các mục tiêu. Bị tấn công bất ngờ, địch chống trả quyết liệt, đại liên từ các lô cốt bắn ra như mưa. B40, B41 của ta tập trung bịt họng các ổ đề kháng của địch. Ta nhanh chóng đánh chiếm sở chỉ huy của địch và làm chủ điện đài, cuộc chiến ác liệt diễn ra oanh liệt ngay trên đảo . Thừa thắng các chiến sĩ tiếp cận các vị trí thuận lợi, dồn địch vào cuối đường giao thông hào, những tiếng loa gọi hàng vang lên. Biết không thể cố thủ mãi trong hầm hào công sự, đối phương đã giương cờ trắng xin hàng. Phía đường hào cuối đảo, những khuôn mặt phờ phạc ngơ ngác của kẻ thất trận, cầm cờ trắng, đưa tay lên xin đầu hàng vô điều kiện.
Lá cờ của mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam được chiến sĩ Lê Xuân Phát kéo lên đỉnh cột cờ trước bia chủ quyền, tung bay trên đảo Song Tử Tây. Lúc đó là 5giờ 15 phút ngày 14/4/1975, Trường Sa được giải phóng hoàn toàn.
3.Vượt sóng xây đảo
Để có quần đảo Trường Sa hiên ngang vững chãi giữa Biển Đông như ngày nay, cách đây 35 năm về trước, những người lính Trung đoàn 83 Công binh hải quân đã vượt sóng ra Trường Sa xây dựng đảo với một sứ mệnh mới. Với mục tiêu xây dựng Trường Sa mạnh về phòng thủ, là trung tâm văn hóa xã hội của quân và dân huyện đảo, điều đó có ý nghĩa chính trị đặc biệt quan trọng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ hướng biển, vừa khẳng định với thế giới rằng quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam.
-Mệnh lệnh trái tim người lính
Sau 8 tháng kể từ ngày đất nước thống nhất, trước yêu cầu khách quan về nhà ở và hệ thống phòng thủ bảo vệ đảo, Bộ Quốc phòng đã giao nhiệm vụ cho Bộ tư lệnh Hải quân tiến hành khảo sát xây dựng các nhà kiên cố trên quần đảo Trường Sa.
Đại tướng Lê Đức Anh tại Trường Sa năm 1988. Ảnh: Tư liệu |
Việc xây dựng phải bảo đảm 2 yếu tố cơ bản: Phải là nơi phòng thủ kiên cố có tầm quan sát rộng, tiện cho cơ động sẵn sàng chiến đấu và tránh nắng nóng; vừa tránh được ẩm thấp nước biển mặn, đón được hướng gió, bảo đảm mọi sinh hoạt công tác, huấn luyện, vui chơi của bộ đội, bảo đảm các công trình dân sinh trên đảo. Nhận nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này, cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 83 Công binh Hải quân xác định: “Dù khó khăn đến mấy, dù phải hi sinh đến tính mạng cũng phải xây dựng bằng được nhà kiên cố lâu bền trên các cụm đảo Trường Sa, đó là mệnh lệnh từ trái tim người lính đối với Tổ quốc nơi tuyến đầu”. Thế là hàng ngàn khối đá, xi măng, sắt thép và vật liệu xây dựng được chuyển xuống tàu đưa ra đảo.
Trường Sa sau ngày giải phóng. Ảnh: Tư liệu |
Chuyến tàu đầu tiên mang tên Đại Khánh do Đại úy Lê Nhật Cát, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 83 chỉ huy 70 cán bộ chiến sĩ trẻ hành trình ra Trường Sa vào cuối tháng 4/1976. Việc đi Trường Sa ngày ấy vô cùng khó khăn gian khổ. Bởi đất nước mới trải qua chiến tranh, tàn tích đau thương chưa xóa nhòa, giờ lại phải ra Trường Sa xây dựng đảo-một thử thách lớn đối với những người lính công binh thời bình. Tàu Đại Khánh có trọng tải 75 tấn vượt sóng ra Trường Sa từ cảng T thuộc Cam Ranh. Sau gần 4 ngày lênh đênh trên biển tàu đã đến đảo Trường Sa. Gần 4 ngày vật lộn với sóng gió, 80% cán bộ chiến sĩ bị say sóng, nhiều chiến sĩ trẻ bỏ bữa. Hầu hết các chiến sĩ chưa biết Trường Sa là gì, chỉ hình dung trong đầu đó là một hòn đảo xa xôi và thiêng liêng. Trong tim họ luôn nghĩ, ra đảo Trường Sa để xây nhà là nhiệm vụ vinh quang, khí thế hừng hực trong tim và không hề ngần ngại. Ngay các chiến sĩ lần đầu đến Trường Sa ngày ấy, cũng luôn nghĩ xây dựng đảo vừa là nghĩa vụ thiêng liêng từ trái tim, vừa góp sức trẻ của mình cho đất nước và sẵn sàng hi sinh. Bởi vậy, những khó khăn gian khổ, sóng gió, khí hậu khắc nghiệt đối với họ cũng không hề gì, miễn là hoàn thành nhiệm vụ.
–Khó khăn không sờn lòng
Khi đặt chân đến Trường Sa, cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 83 Công binh Hải quân bước vào cuộc “chiến đấu” mới, đó là cuộc “chiến đấu” chống chọi với khí hậu khắc nghiệt nắng gió của đại dương và thiếu thốn đủ bề. Ban ngày nhiệt độ ở Trường Sa nóng đến 36 độ, cộng với gió Tây Nam thổi mạnh, hơi nước mặn từ biển bốc lên, càng làm cho khí hậu thêm phần khắc nghiệt.
Đảo Tiên Nữ ngày nay. Ảnh: Tư liệu |
Công việc đầu tiên của cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 83 là thiết kế nơi ăn ở, nhanh chóng bắt tay vào xây đảo. Một bài toán vô cùng khó khăn đặt ra là làm gì để có nước ngọt, trong khi lượng nước ngọt đem theo tàu vơi dần. Thời điểm đó, Trường Sa không có nước ngọt ngoài đảo Trường Sa Lớn và Song Tử Tây. Hai đảo này có bể chứa nước của quân đội chính quyền Sài Gòn để lại, mỗi bể chừng 6 khối. Để có nước ngọt nấu ăn, các chiến sĩ đã tận dụng tất cả những gì có thể, kể cả áo mưa rách, vỏ lon sữa bò của lính hải quân Sài Gòn vứt chỏng chơ trên cát để hứng nước mưa. Anh em đã sáng tạo đào hố, dùng xi măng trát quanh để chứa nước. Tuy nhiên lượng nước mưa hứng được cũng không đủ cho bộ đội sinh hoạt ăn uống, tắm giặt hàng ngày. Nước ngọt chỉ dùng nấu cơm, bộ đội tắm giặt bằng nước lợ. Sau một thời gian dài, da người nào cũng xù xì như có một lớp sừng bám. Việc ăn uống vô cùng thiếu thốn. Có khi, mỗi bữa ăn, cả đại đội chỉ có 4 hộp thịt của Liên Xô, đổ thêm nước rồi nấu sôi, chan cơm. Anh em thèm một bữa rau xanh cháy cổ nhưng lấy đâu ra giữa Trường Sa chỉ có nắng gió cát và sỏi đá.
Trung tá Nguyễn Tiến Cường, hiện là trợ lý kế hoạch tổng hợp Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân, nguyên là thuyền trưởng tàu HQ-668 năm 1988 đã chở một đại đội Trung đoàn 83 Công binh Hải quân ra Trường Sa xây đảo, nhớ lại: “Vào thời điểm xây những ngôi nhà đầu tiên trên đảo vô cùng khó khăn. Hầu như các chiến sĩ chỉ tắm biển, nước ngọt chỉ dùng cho nấu ăn và đánh răng rửa mặt. Trên trời nắng cháy da, mặt đảo nóng hừng hực do cát bốc lên, anh em phải dùng bạt che tạm làm nhà ở. Những ngày đầu giải phóng, cả đảo chỉ có cát và sỏi đá mù mịt, chưa có cây xanh. Khó khăn thì không thể nói hết được, nhưng điều quan trọng là cán bộ chiến sĩ luôn vững vàng, yên tâm tư tưởng và quyết tâm xây đảo. Nhiều chiến sĩ hoàn thành nhiệm vụ đã xung phong ở lại tiếp tục xây những đảo khác nữa. Khó khăn không bao giờ làm họ sờn lòng”.
4.“Loa thành” đầu tiên
Truyền thuyết kể rằng ngày trước Vua An Dương Vương muốn xây thành Cổ Loa đánh giặc, nhưng bao nhiêu năm trời ròng rã cứ xây đến đâu thành lại đổ đến đó. Mãi đến khi thần Kim Quy trao cho nỏ thần thành mới xây xong. Vậy mà ngày nay giữa Trường Sa đầy bão tố, chẳng cần một sức mạnh thần linh nào cả, chỉ có bàn tay khối óc, nghị lực phi thường và tình yêu biển đảo, những người lính Trung đoàn 83 Công binh Hải quân đã xây nên những loa thành vững vàng kiên trung nơi đầu sóng ngọn gió.
Công việc đầu tiên của 70 cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 83 Công binh Hải quân là xác định tọa độ đặt móng xây nhà theo tiêu chuẩn lâu bền. Đảo Trường Sa những ngày đầu sau giải phóng hoang sơ và ngổn ngang đất đá. Tất cả công trình quân sự, nhà ở, hầm hào của địch để lại hầu hết bị cày xới, tàn phá. Vài ngôi nhà cấp 4 còn lại không có gì ngoài 4 bức tường mục nát, cháy sém. Mặt đảo bị cày xới bởi đạn, mìn, cây cối không mọc được, vì thuốc súng hòa lẫn vào sỏi, cát.
Đảo Thuyền Chài B được xây dựng thế hệ đầu tiên. |
Dưới cái nắng như thiêu như đốt, các chiến sĩ quần đùi, áo lót ngày đêm vận chuyển vật liệu từ tàu vào đảo, băng qua đá san hô. Quân bình mỗi chiến sĩ vác 200 hòn đá mỗi ngày. Ban ngày vận chuyển vật liệu, ban đêm đóng cọc dựng nhà che bạt ở tạm, cốt để bộ đội có chỗ ăn cơm và ngủ lấy lại sức. Nắng gió rát mặt, chiếc mũ mềm sao vàng đỏ chói trên đầu, các chiến sĩ như những con ong chăm chỉ người vác đá, người khiêng xi măng, người trộn hồ, tung gạch. Sau gần một tháng thi công, ngôi nhà đầu tiên trên đảo Trường Sa Lớn hoàn thành cuối tháng 5/1976.
Loại nhà “sê-ri” thế hệ đầu tiên kết cấu nửa chìm nửa nổi, chiều cao 2,8 mét, trong đó 1,5 mét ẩn âm trong lòng đảo, lòng nhà rộng 4,5 mét theo hình lục giác, có các cửa sổ, tiện cơ động quan sát, hứng gió 4 phía. Cùng thời điểm ấy, một phân đội Công binh Hải quân Trung đoàn 83 tiến hành xây nhà trên đảo Song Tử Tây. Cũng như ở đảo Trường Sa Lớn, cuộc sống sinh hoạt của các chiến sĩ ở đây vô cùng gian khổ, nhưng tinh thần ý chí xây đảo thì luôn hừng hực trong tim, không ai kêu ca phàn nàn hoặc có tư tưởng chùn bước.
Đảo Phan Vinh khi chưa xây dựng – năm 1988. |
Song song với việc xây nhà, các chiến sĩ Trung đoàn 83 còn có nhiệm vụ quan trọng là mở thông 2 lạch để đưa tàu cặp vào mép đảo. Trong khi không có phương tiện khoan trong nước, bộ đội đã sáng tạo ra cách dùng bộc phá đặt sát đáy san hô và châm ngòi nổ. Sức công phá dưới nước tuy có hạn chế nhưng so với sức người gấp trăm lần. Sau hơn 1 tháng lao động khẩn trương, 2 luồng ở đảo Trường Sa Lớn và Nam Yết được hoàn thành, luồng dài đến 300 mét, rộng 8 mét. Các chiến sĩ ngụp lặn trong sóng nước, mò đá san hô từ nổ bộc phá lên xây đảo.
– Cuộc chiến không tiếng sung
Sau căn nhà đầu tiên xây dựng ở đảo Trường Sa Lớn, cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 83 Công binh Hải quân được Quân chủng Hải quân giao nhiệm vụ tiếp tục khảo sát và xây nhà trên các đảo Nam Yết, Sinh Tồn, Song Tử Tây và Sơn Ca. Cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 83 lại bước vào cuộc chiến đấu mới. Cuộc chiến không tiếng súng ấy chỉ có một điều kiện duy nhất là chạy đua với sóng gió và chiến thắng, bất chấp sự gian khổ, hiểm nguy.
Những chiến sĩ Đoàn M31 Công binh Hải quân vật lộn với nắng gió xây đảo Trường Sa. |
Do nhiều công trình phải xây dựng khẩn trương, nên có phân đội công binh sau khi hoàn thành nhiệm vụ xây đảo, không về đất liền theo qui định, mà tiếp tục ở lại từ 2-3 năm để xây những công trình nhà ở các đảo khác. Có cán bộ, chiến sĩ 4 năm mới vào bờ một lần. Nhiều chiến sĩ được vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng, nhiều chiến sĩ được chuyển chế độ quân nhân chuyên nghiệp phục vụ quân đội lâu dài. Có chiến sĩ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được đi đào tạo Sĩ quan Công binh, sau đó trở lại đơn vị cũ, chỉ huy chiến sĩ ra Trường Sa xây đảo.
Đại tá Nguyễn Viết Nhất, người có nhiều năm cùng cán bộ chiến sĩ Trung đoàn mình xây đảo Trường Sa chia sẻ chân tình, khi chúng tôi gặp ông trong chiến dịch chở đá ra Trường Sa xây đảo Đá Tây tại Đoàn 129 Hải quân: Lính Công binh Hải quân chúng tôi luôn tự hào vì đã góp công sức của mình cho các hòn đảo tiền tiêu của Tổ quốc. Tất cả các công trình lớn nhỏ trong quần đảo Trường Sa đã xây dựng, đều có bàn tay và sự cống hiến của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 131 Công binh Hải quân. Bây giờ xây đảo không như trước nữa, có yêu cầu là đi, xây đảo 4 mùa. Ban ngày sóng gió thì xây vào đêm, bất chấp thời tiết, chẳng sợ khó khăn, cán bộ, chiến sĩ Công binh Hải quân chúng tôi vô cùng tự hào về điều đó. Công cuộc xây đảo Trường Sa của lính Công binh Hải quân hiện nay là một cuộc chiến đấu không tiếng súng trong thời bình.
Mai Thắng
Để Hoàng Sa, Trường Sa sống mãi “trên từng cây số”
Đến TP. Đà Nẵng đặt chân trên con đường dài và đẹp nhất ven biển từ bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) đến giáp xã Điện Ngọc, huyện Điện Bàn, (Quảng Nam) là đường Hoàng Sa – Trường Sa. Với chiều dài hơn 27km, và được mệnh danh là con đường 5 sao với hàng chục khách sạn, resort cao cấp, những bãi tắm biển đẹp ven biển. Đây không chỉ là hai con đường xe cộ qua lại thuần túy về giao thông mà nó cùng với những con đường mang tên các địa danh oai hùng như: Bạch Đằng, Điện Biên Phủ, Núi Thành…hai con đường mang tên Hoàng Sa, Trường Sa có ý nghĩa to lớn, thể hiện khát vọng của lòng dân. Hai quần đảo này luôn nằm trong tâm trí của mọi người dân Việt Nam, đó là một phần đất do cha ông khai phá và mỗi công dân đều có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa không chỉ về mặt địa lý, pháp lý mà chủ quyền ngay trong trái tim, ý chí của con người Việt Nam.
Một đoạn đường Hoàng Sa và Trường Sa (Tp Đà Nẵng) Ảnh: Văn Chung
Con đường đã nhắc nhở từ trẻ thơ đến người lớn rằng chúng ta có hai mảnh đất, hai vùng biển thiêng liêng ngoài khơi xa. Người người sinh sống và qua lại tại đây nhớ lấy và giữ lấy Hoàng Sa, Trường Sa như một địa chỉ không thể mất. Không cách nào có thể lãng quên được khi hai “bảo vật” của Việt Nam đã và đang ở ngay trong lòng thành phố, đã và đang ở ngay trong lòng dân cả nước.
Tôi rất mong sẽ có thêm những cây cầu, những con đường được mang tên những hòn đảo đã thấm máu của các chiến sĩ Việt Nam để bảo vệ mảnh đất nước Việt. Có thêm những bảng ghi chép, những bia đá lưu danh, xây dựng thêm những bức tường đá lớn, trên đó tạc bản đồ 2 quần đảo, ghi rõ tên từng đảo nhỏ. Bên cạnh là những thông tin lịch sử về công cuộc khai phá biển Đông và Hoàng Sa – Trường Sa của nhà Nguyễn, cùng với sự khẳng định chủ quyền liên tục của Việt Nam đối với 2 quần đảo này từ xa xưa cho đến hôm nay. Nó như một bảo tàng ngoài trời về Hoàng Sa – Trường Sa và biển Đông để cho bất cứ ai khi đến TP.Đà Nẵng, đều có ước muốn đi trên con đường này như đang đi trong một bảo tàng sống để cho mọi công dân và du khách trong và ngoài nước đến thưởng ngoạn và suy ngẫm.
Xin cảm ơn lãnh đạo thành phố, HĐND thành phố Đà Nẵng đã rất sáng suốt và nhìn xa trông rộng khi đặt tên Hoàng Sa, Trường Sa cho hai con đường. Đường Hoàng Sa, Trường Sa càng thay da đổi thịt, càng tạo nên ấn tượng và niềm vui được giữ gìn, phát triển di sản của cha ông. Hành động đặt tên đường Hoàng Sa, Trường Sa rất đơn giản nhưng dũng cảm và mang lại tác dụng yêu nước lớn lao. Mong rằng không chỉ ở Đà Nẵng mà ở mọi nẻo đường của Tổ quốc đều có tên những con đường Hoàng Sa, Trường Sa, con đường của sự khẳng định và vươn ra biển lớn mỗi người dân tiếp tục góp đá cho Trường Sa, tiếp tục thông tin và vận động dư luận quốc tế đồng tình.
Nguyễn Văn Chung
- TÀI LIỆU THAM KHẢO TRONG BÀI
[1] Nghị định số: 161/2003/NĐ-CP về quy chế khu vực biên giới biển
[2] Nghị định Số: 34/2000/NĐ-CP ngày 18 tháng 8 năm 2000 của chính phủVề Quy chế khu vực biên giới đất liền nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
[3] Luật biên giới quốc gia số 06/2003/QH11, thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2003.
[4] Tuyên bố ngày 12/7/1977 của Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về; lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
[5] Tuyên bố ngày 12/11/1982 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam.
[6] Công ước luật biển 1982, công ước có hiệu lực từ ngày 16/11/1994 Việt Nam phên công ước ngày 23/6/1994.
[7] Luật biên giới quốc gia đã được Quốc hội nước cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua ngày 17/6/2003 và có hiệu lực ngày 1/1/2004
[8] Địa lý Việt Nam Diện tích và biên giới.
[9] Luật dân quân tự vệ năm 2009
[10] Pháp lệnh Bộ đội biên phòng 1997
[11] Nghị định số 140/2004/ND-CP ngày 25 tháng 5 năm 2004 của chính phủ quy định một số điều Luật biên giới quốc gia.
[12] Nghị định số 02/1998/ND-CP ngày 6 tháng 1 năm 1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều Pháp lệnh B.ĐBP
[13] Nghị định số 58/2010/ND-CP ngày 1 tháng 6 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật dân quân tự vệ.
[14] Thông tư số 179/2001/TT-BQP ngày 22 tháng 1 năm 2001 của Bộ quốc phòng hướng dẫn thực hiện nghị định số 34/2000/NĐ-CP ngày 18 tháng 8 năm 2000 của Chính phủ về quy chế khu vực biên giới đất liền nước CHXHCN Việt Nam
[15] Thông tư số 89/2004/TT-BQP ngày 19 tháng 6 năm 2004 của Bộ quốc phòng hướng dẫn thực hiện nghị định số 161/2000/NĐ-CP ngày 18 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ về quy chế khu vực biên giới biển.
[16] Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định BGQG giữa Việt Nam- Lào (18-7-1977) ký ngày 24-1-1986 (
[17] Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ nước CHND Trung Hoa
[18] Tuyên bố của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam về vùng trời Việt Nam ngày 5-6-1984
[19] Hiệp ước Biên giới trên đất liền giữa Việt Nam- Trung Quốc ký ngày 30-12-1999.
[20] Hiệp ước hoạch định BGQG giữa Việt Nam- Lào ký ngày 18-7-1977.
[21] Hiệp định về quy chế BGQG giữa Việt Nam- Lào ký ngày 1-3-1990.
[22] Hiệp định giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà Indonesia về phân định ranh giới thềm lục địa
[23] Tuyên bố của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN ngày 12-5-1977.
[24] Hiệp định về Vùng nước lịch sử của nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Campuchia.
[25] Nguyễn Đình Đầu, Việt nam Quốc hiệu và cương vực qua các thời đại, NxB Trẻ. Tp Hồ Chí Minh, 2007.
[26] Hỏi đáp về Luật biên giới Quốc gia, NXB Chính trị Quốc gia